Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 13, Chúa Nhật 23.4.2006


MỤC LỤC

Các Linh Mục được mời gọi nên hoàn thiện                                                                               Vatican 2

THÁNH THỂ: ĐIỂM XUẤT PHÁT CỦA CHỨC VỤ LINH MỤC                                                         GSVN

NGÔI MỘ TRỐNG                                                                                                  + Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Đọc Lời Chúa                                                                                                                     + Gm. GB. Bùi Tuần

ĐỨC KYTÔ PHỤC SINH                                                                                                   Lm.  Lê Văn Quảng

QUẢNG DIỄN MỘT SỐ ĐỀ TÀI qua NHÃN QUAN VĂN HÓA VIỆT NAM   Lm. Jos. Cao Phương Kỷ

LUẬT ĐỘC THÂN LINH MỤC                                                              Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

THỜI GIAN MAU QUA, CUỘC ĐỜI THAY ĐỔI                                                           Phó tế Nguyễn Định

Chiên chăm Mục Tử                                                                                        Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Duy

Mẩu đối thoại về lời Halleluja!                                                                               Lm. Nguyễn Ngọc Long

Hiểu Biết Căn Bản về Ung Thư                                                                                Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức

NÓNG GIẬN VÀ CÁCH CHỮA TRỊ                                                                                 Gs. Tôn Thất Bàng


Các Linh Mục được mời gọi nên hoàn thiện

LTS :

Kính thưa Quí vị,

Bốn mươi năm sau Thánh Công Đồng Vatican II, Dân Chúa tại Việt Nam vẫn chỉ biết rất ít về những nội dung canh tân mà Giáo hội toàn cầu đã công bố rộng rãi. Trước sự thúc bách ấy và trong khả năng hạn hẹp của minh, GSVN sẽ cố gắng giới thiệu những bản văn quan trọng. Trước hết là sắc  lệnh PRESBYTERORUM ORDINIS, về chức vụ và đời sống các linh muc. (Bản dịch của GHHV Pio X, 1975).

Sắc Lệnh về Chức vụ & Đời sống các Linh mục

 

Chương III: Đời Sống Linh Mục

1. Các Linh Mục được mời gọi nên hoàn thiện.

Nhờ Bí Tích Thánh Chức, các Linh mục nên giống Chúa Kitô Tư Tế, để như là thừa  tác viên của Đầu Nhiệm Thể và như những cộng tác viên của hàng Giám Mục, các ngài xây dựng và kiến thiết toàn Thân Người là Giáo Hội. Đành rằng ngay từ khi được thánh hiến nhờ phép Rủa Tội, như mọi Kitô hữu, các ngài đã lãnh nhận dấu tích và ân huệ của cả ơn gọi lẫn ơn sủng, để cảc ngài có thể và phải theo đuổi sự hoàn thiện dù bản tính nhân loại yếu hèn, đúng như lởi Chúa phán: “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời là Đấng Hoàn Thiện” (Mt 5, 48). Nhưng các Linh Mục còn có lý do đặc biệt  phải đạt tới sự hoàn thiện này, vì khi lãnh nhận Chức Thánh là các ngài được thánh hiến cho Thiên  Chúa theo một cách thức mới: các ngài trở nên khí cụ sống động của Chúa Kitô Tư Tế Vĩnh Cửu, để qua các thời đại, các ngài có thể tiêp tục công việc kỳ diệu của Đấng đã lấy quyền năng cao cả mà tái lập toàn thể xã hội con người. Do đó, vì mỗi Linh mục đều là hiện thân của Đức Kitô theo cách thức riêng của mình, nên các ngài nhận được những ơn riêng đề trong khi phục vụ dân được trao phó cho ngài và phục vụ toàn thể dân Chúa, ngài có thể dễ dàng nên hoàn thiện như Đấng mà mình đại diện, và để sự yếu đuối của xác thịt loài người được chữa trị nhờ sự thánh thiện của Đấng vì chúng ta đã trở nên Vị Thượng Tề “thánh thiện, trong sạch, vô tội, tách biệt khỏi kẻ có tội” (Dth 7, 26).

Chúa Kitô, Đẩng Chúa Cha đã thánh hóa, thánh hiến và sai xuống trần gian “đã hiến thân cho chúng ta hầu cứu chúng ta khỏi mọi tội ác và thanh tẩy một dân tộc để họ thuộc về ngài và nhiệt thành làm việc Chúa” (Tit 2, 14), và như thế qua cuộc khổ nạn mà vào vinh quang. Các Linh Mục cũng vậy, sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hiến bởi việc xức dầu và được Chúa Kitô sai đi, các ngài tiêu diệt nơi mình những công trình của xác thịt và hoàn toàn hiến thân phùc vụ nhân loại: đó chính là sự thánh thiện mà Đức Giêsu đã ban cho các ngài để nhờ đó mà tiến gần đến con người hoàn thiện.

Bởi đó, khi thi hành thừa tác vụ của Chúa Thánh Thần và của sự công chính, các ngài được vững mạnh trong đời sống thiêng liêng, miễn là các ngài ngoan ngoãn theo Thần Khí Chúa Kitô, Đấng ban sự sống và dẫn dắt các ngài. Chính những hành vi phụng tự hằng ngày cũng như toàn thể tác vụ của các ngài thi hành hoà điệu với Giám Mục và các Linh Mục khác, đều hướng các ngài đến đời sống hoàn hảo. Vả lại, chính sự thánh thiện của Linh Mục giúp các ngài rất nhiều trong việc chu toàn thừa tác vụ của mình một cách hữu hiệu: thật vậy, dù ơn Chúa có thể hoàn tất công trình cứu rỗi qua những thừa tác viên bầt xứng, nhưng sự thường để biểu lộ những việc lạ lùng của mình, Thiên Chúa thích dùng những người sẵn sàng nghe theo sự thúc giục và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần cũng như những người kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và sống thánh thiện, để có thể nói như thánh Tông Đồ rằng: “dù tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà thực ra Chúa Kitô sống trong tôi” ( Gal 2 , 20 ).

Vì thề, để đạt tới những mục đích mục vụ trong việc canh tân bên trong Giáo Hội, để truyền bá Phúc âm cho tất cả thế giới cũng như để đối thoại với thế giới ngày nay, Thánh Công Đồng này tha thiết khuyên tất cả các Linh Mục hãy dùng mọi phương tiện thích hợp mà Giáo Hội ban cho để luôn luôn nỗ lực tiến cao hơn trên đường thánh thiện. Nhờ đó các ngài trở nên những khí cụ ngày càng thích hợp hơn cho việc phục vụ toàn thể Dân Chúa.

Thành tâm và kiên nhẫn thi hành chức vụ của mình trong tinh thần Chúa Kitô là phương pháp riêng giúp các Linh Mục đạt tới sự thánh thiện.

Vì Ià thừa tác viên lời Chúa nên hằng ngày các ngài đọc và nghe lời Chúa mà các ngài sẽ phải dạy lại cho người khác; vì nếu một khi tâm hồn các ngài đã cố gắng đón nhận lời Chúa, thì càng ngày các ngài trở nên môn đệ hoàn thiện hơn của Chúa  Kitô, như lời Thánh Phaolô Tông Đồ nói với Timotheo: “Con hãy chuyên cần và tận tâm để mọi người đều thấy con tiến bộ. Con hãy tự giữ mình và hãy chăm lo lờị mình dạy: hãy cương quyết như vậy, điều đó sẽ khiến con tự cứu rỗi con và cả những ai nghe lời con nữa” (l Tm 4; 15 -16). Thật vậy, khi tìm những cách thích hợp nhất để có thể thông ban cho kẻ khác những điều mình đã chiêm niệm, các ngài mới nếm được một cách ý vị hơn “những sự phong phú không thể khám phá hết được của Chúa Kitô” (Eph 3, 8 ) và sư khôn ngoan muôn mặt của Thiên Chúa. Nhớ rằng chính Chúa là Đấng mở lòng và sự cao trọng của các ngài không do chính mình nhưng đến từ quyền năng Thiên Chúa, các ngài liên kết mật thiết hơn với Chúa Kitô là Thầy và được hướng dẫn bởỉ Thánh Thần Người trong chính hành động trao ban lời Chúa. Như vậy, thông hiệp với Chúa Kitô, các ngàỉ thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa mà mầu nhiệm tình yêu đó đã giấu kín từ lâu đời nay được mạc khải trong Chúa Kitô.

Là thừa tác viên lo việc phụng tự nhất là trong Hy Tế Thánh Lễ, các Linh Mục đặc biệt là hiện thân của Đức Kitô, Đấng đã tự hiến chính mình làm hy vật thánh hóa nhân loại; và như thế các ngài được mời gọi bắt chước điều các ngài đang thi hành, vì khi cử hành mầu nhiệm Chúa chịu chết, các ngài phải lo khắc chế chi thể mình khỏi tật xấu và dục vọng. Công việc cứu chuộc chúng ta được liên tục thực hiện trong mầu nhiệm Hy Tế Thánh Thể trong đó các Linh mục chu toàn chức vụ trọng yếu nhất của mình; do đó, hết sức khuyến khích việc cử hành Thánh Lễ hằng ngày dù các tín hữu không thể tới dự, vì đó là hành động của Chúa Kitô và của Giáo Hội. Như vậy, trong khi liên kết với hành động của Chúa Kitô Linh Mục, hằng ngày các Linh Mục tự hiến toàn thân cho Chúa, và trong khi được Mình Chúa Kitô nuôi dưỡng, tự thâm tâm mình, các ngài tham dự vào tình yêu của Đấng đã tự hiến làm lương thực nuôi các tín hữu. Trong khi ban phát các Bí Tích, các ngài cũng hiệp nhất với ý muốn và tình yêu của Chúa Kitô; và các ngài thể hiện sự hiệp nhất đó một cách đặc biệt, khi tỏ ra hoàn toàn và luôn luôn sẵn sàng ban Bí Tích Cáo Giải mỗi khi các giáo hữu thỉnh cầu một cách hợp lý. Trong khi các ngàí đọc Kinh Nhật Tụng, Giáo Hội mượn tiếng của các ngài để không ngừng cầu nguyện nhân danh toàn thể nhân loại, và để kết hợp với Chúa Kitô, Đấng “luôn luôn sống để cầu bầu cho chúng ta” ( Dth 7, 25 ).

Là những vị cai quản và chăn dắt Dân Chúa, các ngài được tình yêu của Chúa Chiên nhân lành thúc đẩy để hiến mạng sống cho con chiên, và sẵn sàng chấp nhận hy sinh tột đỉnh, theo gương của nhiều Linh Mục, ngay cả trong thời hiện đại, đã đám hy sinh mạng sống mình. Là những nhà giáo dục trong đức tin cho các tín hữu: “nhờ máu Chúa Kitô, các ngài vững tâm bước vào Thánh điện” ( Dth 10, 19), các ngài tới gần Thiên Chúa “vời một tấm lòng chân thành tràn đầy đức tin” ( Dth 10, 22); các ngài gây niềm hy vọng vững vàng cho các tín hữu của mmh, để khi đã được Thiên Chúa khích lệ, các ngài có thể an ủi những người đang bị thử thách. Là những vị hướng dẫn cộng đoàn, các ngài thực hành việc khổ chế riêng biệt của vị chăn dắt các linh hồn: từ bỏ những tiện nghi riêng, không tìm kiếm tư lợi nhưng tìm lợi ích cho nhiều người để họ đựợc cứu rỗi, luôn tiến bộ hơn trong việc chu toàn hoạt động mục vụ cách hoàn hảo hơn, và khi cần các ngài sẵn sàng đi vào những con đường phục mớ mẻ, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thấn tình yêu, Đấng thổi nơi nào Ngài muốn.

Trong thế giới ngày nay, vì con người phải đối phó với biết bao công việc và phải khổ tâm vì biết bao vấn đề khác nhau, lắm khi cần phải được giải quyết cấp tốc, nên hay có tình trạng con người bị chi phối bởỉ nhiều vấn đề khác nhau. Còn các Linh Mục vì bị vướng mắc và phân tán bởí nhiều trách nhiệm của chức vụ, nên không khỏi lo lắng tìm phương cách nào để có thể thống nhất đời sống nội tâm của mình với những đòi hỏi của hoạt động bên ngoài. Việc thống nhất đời sống này không thể được thực hiện nguyên bằng cách tổ chức hoàn toàn bên ngoài các sinh hoạt của tác vụ hoặc bằng cách thực thi những việc đạo đức, tuy những việc này giúp phát triển sự thống nhất đời sống Linh Mục. Nhưng các Linh Mục có thể kiến tạo sự thống nhất đời sống khi các ngài theo gương Chúa Kitô trong việc chu toàn tác vụ: lương thực của Người là lâm theo ý muốn của Đấng đã sai Người, để Người hoàn thành công việc của mình.

Thực ra, Chúa Kitô hành động qua các thừa tác viên của Người để luôn luôn dùng Giáo Hội thi hành ý muốn của Chúa Cha trên trần gian, và vì vậy Người vẫn là nguyên lý và nguồn mạch sự thống nhất đời sống của các ngài. Vậy, các linh mục phải thực hiện việc thống nhất đời sống của mình bằng cách kết hợp với Chúa Kitô trong sự nhận biết ý Chúa Cha và trong sự hiến thân cho đoàn chiên đã trao phó cho các ngài. Như thế, nhờ thi hành những nhiệm vụ của Chúa Chiên nhân lành, và trong chính khi thực thi bác ái mục vụ, các ngài tìm thấy mối dây hoàn thiện của Linh Mục ràng buộc đời sống và hoạt động của mình làm một. Thật thế, bác ái mục vụ này trước hết phát xuất từ Hy Tế Thánh Thể, do đó Hy Tế Thánh Thể là Trung Tâm và là cội rễ của toàn thể đời sống Linh Mục cho nên Linh Mục phải cố gắng sống thực trong tâm hồn điều mình đã làm trên bàn tế lễ. Nhưng điều đó chỉ có thể thực hiện được, khi chính các Linh Mục nhờ cầu nguyện luôn luôn đi sâu mãi vào mầu nhiệm Chúa Kitô.

Để có thể thực hiện sự thống nhất đời sống cách cụ thể, hoàn cảnh cụ thể, các ngài phải xét đoán mọi hoạt động của mình cho biết rõ đâu là ý muốn của Thiên Chúa, nghĩa là biết rõ những hoạt động đó có thích hợp vởi những tiêu chuẩn của sứ mệnh Phúc âm của Giáo Hội hay không. Thực vậy, ai trung thành với Chúa Kitô không thể không trung thành với Giáo Hội. Do đó đức bác ái mục vụ đòi hỏi các Linh Mục, để khỏi trở nên vô ích, phải luôn luôn làm việc trong mối hiệp thông với các Giám Mục và với những anh em linh mục khác. Có làm như thế, các Linh Mục mới tìm được sự thông nhất đời sống của mình trong chính sứ mệnh duy nhất của Giáo Hội, và như vậy các Ngài mớì hiệp nhất với Chúa, và qua Người, với chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, để có thể tràn đầy an ủi và dư thừa hoan lạc.

 
VỀ MỤC LỤC

THÁNH THỂ: ĐIỂM XUẤT PHÁT CỦA CHỨC VỤ LINH MỤC

Tiếp theo kỳ trước     

Sau khi đã tìm hiểu sơ qua về chức vụ Linh mục trong dòng thời gian, chúng ta cùng nhau bàn tới mối liên hệ chặt chẽ giữa Thánh Thể và Linh mục.

Thánh Luca đã kể lại việc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể như sau :

“Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: "Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua…Các ông ra đi, thấy mọi sự y như Người đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt Qua. Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. Người nói với các ông: "Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa. Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.” (Lc 22,7-8; 134-16; 19-20).

Qua lời tường thuật này, chúng ta nhận thấy : Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền chức trong cùng một lúc.

Thánh Phaolô còn nhấn mạnh hơn nữa :

“Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." (1Cr 11,23-25).

 Từ đó, chúng ta có thể xác tín hai điểm chính yếu sau đây :

1- Nếu không có Thánh Thể thì cũng chẳng có Linh mục. Thực vậy, mục đích của Chúa Giêsu khi thiết lập bí tích Truyền chức là gì nếu không phải là để cử hành Thánh Thể theo như lệnh truyền của Ngài: “Các con hày làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Và như vậy, Thánh Thể chính là nguồn gốc, chính là điểm xuất phát ra chức vụ Linh mục.

2- Nếu không có Linh mục thì cũng chẳng có Thánh Thể. Sách Giáo lý Tân Định ngày xưa chúng ta học có câu : Hỏi Thánh lễ là gì ?  Thưa là hy tế Đức Chúa Giêsu nhờ tay Linh mục, hợp cùng toàn thể dân Chúa, dâng mình cho Đức Chúa Cha, như xưa Ngài đã dâng mình trên Thánh giá.

Sở dĩ ngày hôm nay, lễ Vượt qua của Đức Kitô được tưởng niệm và lễ hy sinh độc nhất của Ngài được hiện tại hóa và được tiến dâng lên Chúa Cha là nhờ các Linh mục.

Thực vậy, chỉ có các Linh mục mới được cử hành Thánh Thể trong tư cách của Đức Kitô mà thôi. Đây cũng là điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh trong thông điệp “Giáo Hội từ Thánh Thể” (Ecclesia de Eucharistia) :

“Chính linh mục được truyền chức mới “ cử hành Hy tế Thánh Thể trong tư cách của Chúa Kitô và hiến dâng cho Chúa Cha nhân danh toàn thể tín hữu”. (GHTTT 28).

“Cụm từ được Công Đồng Vaticanô II sử dụng nhiều lần: “những ai đã nhận chức tư  tế thừa tác mới cử hành Hy Tế Thánh Thể trong tư cách của Chúa Kitô” đã được khắc sâu trong lời dạy của giáo huấn Tông Tòa như tôi đã có dịp xác định rõ, in persona Christi, có nghĩa mạnh hơn là “ nhân danh” hay “thay thế” Chúa Kitô. In persona : nghĩa là trong sự đồng nhất đặc biệt, mang tính bí tích, với “vị Thượng Tế của Giao Ước vĩnh cữu”, Đấng là tác giả và là chủ thể chính của Hy Tế bản thân, trong đó không ai thay thế được”(GHTTT 29).

“Từ những gì đã nói trên, người ta biết trách nhiệm lớn lao trong Cử Hành Thánh Thể, mà trước hết các linh mục phải có bổn phận, vì các ngài có nhiệm vụ chủ tọa trong tư cách của Chúa Kitô (in persona Christi), bảo đảm chứng tá và phục vụ sự hiệp thông,  không những cho cộng đoàn đang trực tiếp tham dự, mà còn cho cả Giáo Hội toàn cầu luôn có quan hệ tới Bí Tích Thánh Thể.”(GHTTT 52).

     

KẾT LUẬN

Giữa Thánh Thể và Linh mục có một sợi dây gắn bó mật thiết : Linh mục có là nhờ Thánh Thể. Và Thánh Thể hiện diện là nhờ Linh mục.

Cảm tạ Chúa đã trao ban thiên chức Linh mục cho chúng ta. Thế nhưng, điều quan trọng đó là :

- Đừng hỏi xem Thánh Thể đã đem lại những gì cho tôi,  nhưng hãy hỏi xem tôi đã làm được những gì để đền đáp tình yêu của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể ?

Ngoài ra, chúng ta có siêng năng tìm gặp Ngài trong bí tích Thánh Thể hay không, như trong sắc lệnh về việc “Đào tạo Linh mục” Công đồng đã đưa ra :

“Phải dạy họ biết tìm gặp Đức Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các mầu nhiệm chí thánh của Giáo hội, nhất là bí tích Thánh thể và kinh nguyện thần vụ ?” (ĐT 8).

GSVN 

VỀ MỤC LỤC

NGÔI MỘ TRỐNG

 

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Ngày Chúa nhật Phục sinh, chúng ta giống như các môn đệ Phê-rô và Gioan vội vã hối hả đến bên mộ Chúa, sau khi đã nghe Maria Mađalêna loan tin : « Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu » (Ga 20,2).

Thiên Chúa như người thích chơi trò trốn tìm với con người. Con người cứ tìm kiếm, khám phá và dõi theo Người và Ngài cứ thoắt ẩn thoắt hiện trong cuộc sống. Người ta không thể chứng minh Ngài hiện hữu như « hai với hai là bốn » nhưng trái lại người ta cũng không thể phủ nhận sự hiện diện của Ngài. Mới hôm nào, Đức Giêsu còn hẹn với các môn đệ : « sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilêa trước anh em » (Mc 14,28). Vậy mà hôm nay Ngài để lại giữa họ một ngôi mộ trống. Trước ngôi mộ này,  mỗi người chứng kiến có  những nhận định khác nhau : Phê-rô và người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến  « đã thấy và đã tin », trong khi các thượng tế và các kỳ mục lại tạo nên câu chuyện về việc các môn đệ đã lấy trộm xác (Mt 28, 12-15)

Như các môn đệ ngày xưa, khách hành hương Thánh Địa hôm nay vẫn được chứng kiến một ngôi mộ trống. Người ta đến có thể vì tò mò, hiếu kỳ. Nhưng phần lớn  trong họ là các tín hữu Kitô đến để cung kính và cầu nguyện tại chính nơi đã an táng xác Chúa, như truyền thống công nhận, sau khi tháo đanh Ngài khỏi Thập giá. Ngôi mộ trống của ngày Phục sinh  nói với chúng ta biết bao điều :

             

1- Ngôi mộ trống là khởi điểm đức tin của các môn đệ :

Trước cuộc tử nạn, Phê-rô là người nhát đảm. Mặc dù trước đó Ông đã mạnh mẽ tuyên bố : « dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng vẫn sẵn sàng » (Lc 22,33), vây mà khi Thày bị bắt, Ông đã vội vàng chối Thày mình ba lần trước câu hỏi bâng quơ của một cô đầy tớ. Trước ngôi mộ trống, các ông đã tin. Ngôi mộ trống là bằng chứng hùng hồn về quyền năng Thiên Chúa. Bởi vì nếu thân xác của Đức Giêsu còn nằm yên trong ngôi mộ thì Ngài cũng chỉ như bao người khác mà thôi, giáo lý của Ngài không có gì đặc biệt. Người môn đệ được Đức Giêsu yêu mến đồng thời cũng là tác giả của Phúc âm thứ Bốn đã nói lên cảm nghiệm cá nhân của mình khi chứng kiến ngôi mộ trống : Ông đã thấy và Ông đã tin. Thấy và Tin, đó chính là nội dung chính của Tin Mừng này và đó cũng chính là nguồn hứng khởi đã khiến Ông viết ra để làm chứng về Đức Giêsu, « để  Anh Em tin rằng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa và để Anh Em  tin mà được sống nhờ Danh Ngài ».(Ga 20,31).

              

2- Ngôi mộ trống là khởi điểm của một Dân Tộc Mới :

Vào thuở bình minh của công cuộc sáng tạo, khi muốn dựng nên người phụ nữ, Thiên Chúa đã khiến Ông A-đam ngủ say, và từ chiếc xương sườn của Ông, Ngài đã tạo nên người phụ nữ (xem St 2,18-25). Trong ngôi mộ này, Đức Giêsu, vị A-đam thứ hai - hay vị A-đam cuối cùng - đã ngủ yên. Và trong giấc ngủ này, chính tại cạnh sườn bị đâm thâu qua  mà một dân tộc mới  được sinh ra. Dân  tộc này  bao gồm tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc màu da và ngôn ngữ (xem Cv 10,34a.37-43, bài đọc đề nghị cho Phụng vụ Lời Chúa của Chúa nhật Phục sinh). Dân tộc mới này bao gồm tất cả những ai đã được thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu, Đấng đã chết và sống lại, và chính chúng ta, những người từ « dân ngoại » cũng được trở nên thành viên của Dân tộc này. Qua làn nước tái sinh, chúng ta đã được « chỗi dậy cùng với Đức Kitô » (2 Cl 3,1) để làm thành « giống nòi được tuyển chọn,là hàng tư tế vương giả,là dân Thánh, Dân  riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người » (l Pr 2,9)

             

3- Ngôi mộ trống giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của cuộc đời :

Phụng vụ Giáo hội đề nghị chúng ta suy ngắm Đàng Thánh Giá vào chiều Thứ Bảy Tuần Thánh. Một nghi thức thật cảm động : từng đoàn người lặng lẽ âm thầm chiêm ngắm thập giá, biểu tượng của tình yêu tự hiến, biểu tượng của tình thương Thiên Chúa. Ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, Giáo hội nghiêng mình tưởng niệm và cầu nguyện bên mộ Chúa. Tuy vậy, Đức Kitô không chỉ dẫn đưa chúng ta tới nấm mộ. Sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng của Thiên Chúa. Ngôi mộ trống muốn nhắc nhở chúng ta rằng : chúng ta sống là sống cho Thiên Chúa. Cuộc sống đời này là sự chuẩn bị cho đời sau. Ngôi mộ là một điểm dừng, nhưng không phải là cùng đích, vì Đức Giêsu đã ra khỏi mồ, đã chiến thắng tử thần. Cuộc sống này tìm thấy ý nghĩa sâu xa của nó trong chính cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Thập giá là lời mời gọi yêu thương, phục vụ. Thập giá là niềm hy vọng an ủi. Thập giá còn là lời hứa hẹn bảo đảm cho chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.

Vâng, Thiên Chúa vẫn thích chơi trò trốn tìm với con người. Ngôi mộ trống là một bằng chứng hùng hồn cho quyền năng Thiên Chúa. Sự trống vắng ấy là một lời phát biểu mạnh mẽ về sự hiện diện của Ngài, một sự « hiện-diện-vắng-mặt » (présence-absence) đang mời gọi chúng ta hãy tiếp tục  kiếm tìm và gặp gỡ.

Như thế, Lễ phục sinh mời gọi chúng ta đến chiêmngưỡng ngôi mộ trống năm xưa trong khu vườn gần nơi Chúa chịu đóng đinh, để khám phá ra chính sự hiện diện của Ngài. Ngài đã sống lại, Ngài không còn chết nữa. Đức Kitô đang mời gọi chúng ta hãy vượt lên cái thực tại hữu hạn để vươn tới cái siêu nhiên, vô hạn ; hãy thoát ra khỏi sự sợ hãi để ra đi loan báo sự Phục sinh của  Ngài.

+ GM Giuse Vũ văn Thiên

VỀ MỤC LỤC

Đọc Lời Chúa

 

Tác vụ đọc sách, không thuộc về bí tích Truyền Chức. Nhưng được Giáo Hội coi là tác vụ quan trọng, nhất là sau khi Công đồng Vaticăn II ban hành phụng vụ mới, đề cao việc suy tôn Lời Chúa. Tầm quan trọng của chức vụ đọc sách gắn liền với việc suy tôn Lời Chúa.

Đọc sách, thì sách đây thì phải hiểu là Sách Thánh. Đọc sách ở đây, phải hiểu là đọc cho người khác, cho cộng đoàn, nhất là trong lễ nghi, tại nhà thờ.

Vì đọc sách cho người khác, cho cộng đoàn, nên cái tương quan này tất nhiên đặt ra vấn đề: Đọc để làm gì?

Nếu đọc chỉ để cho người ta nghe, thì mục đích quá đơn giản. Nếu đọc không những để cho người ta nghe, mà còn để cho người ta hiểu, thì cũng đã khá. Nhưng xem ra chưa đủ.

Khi phân tích tâm trạng chính mình ta, khi nghe Lời Chúa, ta thấy rằng: Ta muốn nghe Lời Chúa, nhưng ta vẫn thầm ước một cái gì khác nữa.

Thực mà nói, ta không muốn đợi và tìm Lời Chúa giúp ta giải quyết một vấn đề tư tưởng. Ta cũng không có khuynh hướng muốn phân tích Lời Chúa ra từng điểm, như phân tích một bài phát biểu, một bài văn. Ta cũng không có ý tổng hợp, xếp đặt Lời Chúa thành một hệ thống. Ta nghe Lời Chúa như một cái gì toàn diện, như kiểu hình-tâm-thuyết trong tâm lý học. Ta mong chờ ở Lời Chúa một cái gì sống động đến với ta. Ta mong chờ ở Lời Chúa một cái gì có tính cách thời sự, cho hôm nay, cho chính con người sống động của ta.

Đời sống ta đang bị dằn vặt, trôi dạt, thất vọng, ta nghe đọc Lời Chúa, gặp một câu nào đó thích hợp, tự nhiên ta cảm thấy như một cái gì linh thiêng vừa tan vào hồn ta, ta cảm thấy nhẹ nhàng hơn, vững tâm hơn, trong trắng hơn. Ta cảm thấy trong Lời Chúa, có bàn tay Chúa đặt vào đời sống ta. Chúa có mặt, Chúa gần ta, Chúa trực bên ta. Ta gặp được Chúa rồi. Đúng như lời sắc lệnh Phụng Vụ của Công đồng nói: “Chúa Kitô hiện diện trong lời Ngài”. Chính Ngài nói khi người ta đọc Sách Thánh.

Nếu người nghe đọc Sách Thánh chờ đợi một gặp gỡ như thế, thì người đọc Sách Thánh cho ngời ta nghe, phải tự thấy mình có bổn phận đáng lo, đáng kính thế nào.

Phải đọc sao cho thể hiện được sự Chúa hiện diện trong Lời Ngài. Phải đọc sao cho thực hiện được sự chính Chúa nói, khi ta đọc Lời Ngài.

Như thế, tác vụ đọc sách vừa có nhiệm vụ chuẩn bị người nghe, vừa có nhiệm vụ chuẩn bị chính mình. Nhưng chuẩn bị chính mình vốn là việc cần hơn. Chuẩn bị không những chỉ bằng cách đọc dễ dàng, cung kính, với thái độ nghiêm trang, khiêm tốn, mà nhất là bằng tâm hồn sống với Chúa, bằng sự gẫm suy cho Lời Chúa ngấm sâu vào tâm thức và trở thành động lực.

Bổn phận người làm tác vụ đọc sách vì thế không phải là nhỏ để có thể coi thường.

Giờ đây, nếu chúng con biết cộng tác với ơn Chúa, thì lễ nghi ban tác vụ sẽ cho chúng con nhiều lắm, và chúng con sẽ nhờ tác vụ này mà cho đi được nhiều lắm.

Đây là nén bạc Chúa trao cho, phải dùng để sinh lời. Sẽ có ngày Chúa hỏi lại, và sẽ tính theo cách dùng nén bạc này, để có thể trao thêm các tác vụ lớn hơn cho tới chức linh mục.

Lễ ban tác vụ Đọc sách tại Long Xuyên

+ Gm. GB. Bùi Tuần

VỀ MỤC LỤC

ĐỨC KYTÔ PHỤC SINH

 

Thật không dễ để chúng ta rao giảng một Đức Ky Tô là Thiên Chúa. Và càng không dễ để chúng ta rao giảng một Đức Ky Tô là Thiên Chúa đã phục sinh.

Khi Philatô hỏi Chúa: “Ông có phải là vua dân Do Thái không ?” Chúa đáp: “Quan nói đúng. Tôi là vua. Nhưng nước tôi không thuộc về thế  gian nầy. Nếu nước tôi thuộc về thế gian nầy thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do Thái. Nhưng nước tôi không thuộc về thế gian nầy”.

Cũng chính vì những lời nầy mà người Do Thái đã lên án Chúa. Họ đã lên án Chúa vì cho rằng Chúa đã nói những lời phạm thượng. Họ đã lên án Chúa vì cho rằng Ngài là một con người mà dám xưng mình là Con Thiên Chúa. Họ đã lên án Chúa vì quan niệm về Thiên Chúa của họ vẫn còn là Chúa của thời Cựu Ước. Họ đã lên án Chúa vì họ nghĩ rằng Chúa của họ là một Thiên Chúa đầy uy nghi, thánh thiện, cao sang ngự mãi trên chín tầng mây.

Thật vậy, con người dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa là Thiên Chúa đầy oai hùng và quyền năng, một Thiên Chúa ngự đến giữa tiếng sấm sét rền vang như Ngài đã ngự đến trên núi Sinai khi Ngài ban cho Maisen mười giới răn của Chúa, hay một Thiên Chúa quyền năng có thể sai sứ thần giết sạch tất cả những đứa con đầu lòng của người Aicập để trừng phạt tội cứng đầu của vua Pharaon, hay một Thiên Chúa ra cánh tay oai hùng chôn vùi cả hàng vạn quân của người Aicập dưới lòng Biển Đỏ để cứu dân Ngài khỏi ách nô lệ của người Aicập. Và chúng ta dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa như thế.

Nhưng thật khó cho chúng ta để chấp nhận một Thiên Chúa là một trẻ sơ sinh nằm khóc oa oa trong máng cỏ. Thật khó cho chúng ta để chấp nhận một Thiên Chúa là một con người tầm thường, nghèo hèn sống cuộc đời ẩn dật ở làng Nazareth. Càng khó cho chúng ta để chấp nhận một Thiên Chúa lại là một con người đã từng quì gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Và càng khó cho chúng ta biết bao để chấp nhận một Thiên Chúa là một con người đã từng bị người đời nguyền rủa, sỉ nhục, lên án, từng vác thập giá lên đỉnh đồi Calvê để chịu chết và chết một cách nhục hình trên thập giá như một tên tử tội. Quả thật, không dễ để chúng ta chấp nhận một Thiên Chúa như vậy.

Bỡi lẽ, có ai trong chúng ta có thể nghĩ ra rằng vinh quang đến từ thập giá không?

Có ai trong chúng ta có thể nghĩ ra rằng Thiên chúa chỉ thống trị từ lúc bị treo lên không?

Có ai trong chúng ta có thể nghĩ ra rằng sự sống chỉ được phát sinh từ cái chết của Đức KiTô không ?

Chắc chắn, không ai trong chúng ta đã nghĩ ra những điều  đó, bỡi lẽ những điều đó quá nghịch lý, quá phi lý đối với lý trí của con người. Và để chấp nhận được những điều nghịch lý đó, nó đòi hỏi chúng ta một cái gì khác hơn là lý luận. Nó đòi hỏi một NIỀM TIN. Vì thế, tôi xin nói với ông bà anh chị em: Tôn giáo không là để tranh luận nhưng là để TIN và để SỐNG.

Nói đến đây tôi nhớ đến câu chuyện đã được nghe kể trong chuyến du hành sang  Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia mà chín mươi chín phần trăm dân số là Hồi Giáo. Câu chuyện nói về một nhà truyền giáo tình nguyện  sang truyền giáo ở vùng Arập. Arập cũng là một vùng đất mà Hồi giáo là quốc giáo và đa số họ là những người có tinh thần tôn giáo quá khích. Vì thế, trong những nước như vậy, Ky Tô giáo rất khó truyền bá. Nhưng vốn là một con người có bản tính hiền hòa, cởi mở và đạo đức, nên nhà truyền giáo ấy sau một thời gian đã chiếm được cảm tình rất nhiều người chung quanh mà ông đã từng có dịp gặp gỡ, trong số đó có cả vị thủ tướng của Ảrập. Một hôm, thủ tướng Arập mời vị truyền giáo ấy đến nhà dùng bữa cơm tối để có dịp hàn huyên chuyện trò. Trong buổi chuyện trò, hai người đã chia sẻ với nhau về tâm tình tôn giáo. Bấy giờ, nhà truyền giáo ấy mới thưa với vị thủ tướng rằng:

Chúng tôi tin có ba cách thức Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta về chính Ngài:   

- Qua tự nhiên: Nhìn vũ trụ vạn vật chúng ta nhận biết có Thiên Chúa vì phải có một Đấng đã tạo thành ra nó.

 Vị thủ tướng đáp: Chúng tôi cũng tin như vậy.

- Qua Thánh kinh: Thiên Chúa cũng đã mặc khải cho chúng ta về chính Ngài qua Thánh Kinh, Lời của Ngài. Tất cả đều đã được mặc khải trong Thánh Kinh.

Vị thủ tướng đáp: Chúng tôi cũng có Kinh Thánh Koran

- Qua Đức KyTô: Thiên Chúa mặc khải về chính Ngài trong Đức KyTô. Ngài chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài đã sinh ra, đã sống và đã chết cho dân Ngài.

Vị thủ tướng đáp: Chúng tôi cũng có vị tiên tri Mahomet. Ngài cũng dạy cho chúng tôi biết về Thiên Chúa. Ngài cũng đã sinh ra, đã sống và đã chết cho dân Ngài.

Bấy giờ nhà truyền giáo nói tiếp: Nhưng Đức KyTô đã chết và đã phục sinh để cứu dân Ngài khỏi chết. Chúng tôi tin điều đó và chúng tôi muốn ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh đó cho tất cả mọi người trên khắp tận cùng trái đất.

Nghe đến đây vị thủ tướng mới yên lặng, trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu, rồi ngẩng mặt lên nhìn nhà truyền giáo một cách kính phục và nói:

- Vâng, vị tiên tri Mahomet của chúng tôi cũng đã sống và đã chết cho dân Ngài. Nhưng cái gì đã xảy ra sau cái chết của Ngài, chúng tôi hoàn toàn không biết.

Cũng từ đó vị thủ tướng đã có một cái nhìn cũng như một thái độ xem ra có vẻ thân thiện hơn trước nhiều đối với người Kitô giáo và đặc biệt đối với nhà truyền giáo ấy.

Kính thưa quí ông bà anh chị em, đây mới chính là sự khác biệt giữa Đức KyTô và vị tiên tri Mahomet. Đây mới chính là sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người. Và đây cũng chính là sự khác biệt giữa Thiên Chúa chúng ta và các thần minh khác. Đây mới chính là niềm hy vọng của chúng ta vì ích gì cho chúng ta nếu chúng ta tin vào một Đức KyTô đã chết mà không phục sinh.

Vâng, Đức KyTô đã đến, đã sinh ra, đã sống một kiếp sống lầm than, đã chết một cái chết nhục hình trên thập giá và đã phục sinh một cách khải hoàn để mang lại cho con người sự sống vĩnh cửu.

Đức KyTô đã đến 2000 năm rồi và chúng ta đang bước vào một thiên niên kỷ mới. Đã 2000 năm rồi, thế mà trong giáo hội vẫn còn có nhiều người vẫn còn ước mong một giáo hội oai hùng với đầy quyền bính và giàu sang, chứ không phải là giáo hội của Đức KyTô nghèo hèn, phục vụ và phục vụ cho đến chết và chết trên thập giá vì con người.

Không! Không! Chúng ta đã hiểu sai bộ mặt của Đức KyTô cũng như bộ mặt của giáo hội. Do đó, chúng ta đã đi đến chỗ chèn ép, tranh dành địa vị trong giáo hội hơn là phục vụ. Chúng ta vẫn còn sống mãi trong thời Cựu Ước. Vì thế, giáo hội vẫn chưa trưởng thành và phát triển được nhất là tại vùng đất Á Châu nầy.

Ước gì mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức KyTô trong mùa Phục Sinh nầy thấm nhập và đổi mới mỗi người chúng ta, để như nhà truyền giáo kia, chúng ta sẽ dùng chính cuộc sống đạo đức chân thành của chúng ta ra đi loan báo TIN MỪNG PHỤC SINH của Đấng đã chết và sống lại vì con người chúng ta.

Lm. Lê Văn Quảng

VỀ MỤC LỤC

QUẢNG DIỄN MỘT SỐ ĐỀ TÀI qua NHÃN QUAN VĂN HÓA VIỆT NAM

 

THIÊN  CHÚA = TÌNH THƯƠNG

ĐẠO THIÊN CHÚA = ĐẠO TÌNH  THƯƠNG

( bài Số 02, tiếp theo kỳ trước)         

ĐOẠN II

QUẢNG DIỄN MỘT SỐ ĐỀ TÀI

qua NHÃN QUAN VĂN HÓA VIỆT NAM

- Trong Đoạn I, soạn giả đã toát lược những Tư Tưởng  chủ đạo và Phương pháp Lý luận của ĐGC(Đức Giáo Chủ) về toàn bộ hai Phần trong Thông Điệp.Trong Đoạn II này,  sẽ quảng diễn những đề tài được đặt ra trong Thông Điệp như:  Tình ái “Eros”, tình ái”Agape” là gì?Tại sao công việc Từ thiện, Bác ái thuộc về cơ cấu, căn tính của Hội Thánh?v,v…Trong Thông Điệp, ĐGC đã dùng kiến thức về Kinh Thánh, Thần Học, và đặc biệt nhờ Văn hóa La-Hy để diễn giảng Giáo Lý Công Giáo cho các độc giả quen thuộc với cách lý luận của Triết Lý Âu-Mỹ. Ở đây, soạn giả, ước mong trình bày một cách trung thực những tư tưởng của ĐGC, bằng một ngôn ngữ, và Văn Học, Triết Lý gần gũi với dân tộc Á Châu, đặc biệt với đồng hương Việt nam. Ngày nay, các vị truyền giáo đã  bắt đầu ý thức rằng: muốn rao giảng những “Chân Lý Mạc Khải”, chẳng hạn: “Thiên Chúa = Tình Thương”giá trị phổ biến, vượt không-thời gian, thì phải tận dụng và khai thác các tinh hoa của các dân tộc, dùng Văn Hóa, Ngôn ngữ địa phương,  làm phương tiện để diễn giảng “Lời Chúa”cho họ dễ hiểu hơn. Gọi là “Chân Lý có giá trị phổ quát, vượt không-thời gian”, chẳng hạn như: “ Chớ giết người”, hay “ Hãy Thảo Kính Cha Mẹ”..thì Đấng Tạo Hóa đã khắc ghi trong tâm trí con người, trong các nền văn hóa của các dân tộc. Do đó, Chúa Cứu Thế đến trong thế gian, để “HOÀN CHỈNH” , thanh luyện những khuyết điểm, chứ không phá huỷ những gì là Giá Trị, là Thiện Hảo. Vì thiếu nghiên cứu và tôn trọng những  Tinh Hoa trong các nền Văn Hóa kỳ cựu  tại Trung Hoa, Việt Nam, Ấ Độ, ...nên việc truyền bá “Tin Mừng” đã không đem lại những thành quả mong muốn vì không hiểu biết  

- Sau đây, xin quảng diễn một số đề tài quan trọng liên hệ đến Chủ Đề:”Thiên Chúa= Tình Thương”, “Đạo Thiên Chúa=Đạo Tình Thương”; vẫn theo dõi những dòng tư tưởng và thứ tự của các con Số ghi trong  bản văn Thông Điệp của ĐTC(Đức Thánh Cha), để độc giả dễ kiểm chứng. Tốt  nhất là quí độc giả nên tìm đọc chính nguyên bản,  để tự mình khám phá ra nhiều chi tiết kì thú, sau khi đã duyệt qua bản dẫn nhập này.

 

Phần I của Thông Điệp

Tính Chất  Nhất Quán, Duy Nhất của Tình Ái trong Tạo Vật

Và trong Lịch Sử Cứu Nhân Độ Thế

( The Unity of Love in Creation and in Salvation History)

a/-Nhận xét chung về ngôn ngữ nghèo nàn của chữ “Tình Ái”(coi: số 2)

Các ngôn ngữ, tiếng nói của các dân tộc lớn nhỏ trên thế giới, đều thiếu danh từ để biểu lộ các sắc thái tế nhị của chữ “Yêu Thương”(Amor, Amour, Love…). Nếu phân tách về ý nghĩa nội dung, thì “Tình Thương Vô Biên của Đấng Tạo Hóa”, phải khác với tình thương của  cha-mẹ đối với con-cái, khác với tình thương yêu giữa cặp trai-gái…, càng khác xa với ý nghĩa của câu nói: hai con chim sẻ “chúng thương nhau”(?). Tại sao ta chỉ dùng có một chữ”thương” ? Một L.M người Canada, Cha Nhân(Gagnon) rất thông thạo tiếng Việt, thuộc lòng “Truyện Kiều” và thơ phú Việt nam. Trong một buổi nói chuyện vui, khi được hỏi: Theo Cha, người đã ở lâu năm tại Việt Nam, khắp miền nam-bắc, Cha có nhận xét gì về vấn đề chữ“Tình” của người Việt? Cha hóm hỉnh trả lời: Chữ “Amour” ( Yêu Thương), thì người miền bắc nói chữ đầu là “Yêu”, mà người miền nam chỉ kêu chữ sau là “Thương”. Yêu Thương mà đi lên (hướng thượng), thì gọi là “Tình Ái( chữ Ái,có dấu sắc), còn Yêu Thương mà đi xuống, thì kêu là”Ái Tình”( chũ Tình, hạ dấu huyền). Không ai nói: “Ái Tình” của Thiên Chúa, nhưng có thể nói” Tình Ái” của Thiên Chúa. Vả lại, chữ”Thương” vừa có nghĩa là Yêu , vừa có nghĩa là”thương hại”.

- Cần nhiều danh từ khác nhau để có thể bộc lộ, diễn tả  mọi sắc thái của tình ái, nhưng vì chỉ dùng một chữ “yêu thương”, nên ý nghĩa chữ này rất mập mờ, làm ta hiểu lầm và dễ bị lừa gạt. Chẳng hạn như: Khi một thanh niên, ăn mặc bảnh bao thỏ thẻ với một thiếu nữ  thơ ngây, câu:”Anh yêu em” hay Anh thương em”,(I Love You, Ngộ Ái Nị) thì trái tim nàng liền rung động, lờ mờ đôi mắt, vì  cứ tưởng lời ngon ngọt đó là thành thật. Nhưng chẳng may khi gặp”tai nạn”, thì chàng Sở khanh kia đã”quất ngựa truy phong” từ lâu rồi, để lại một mình em “ôm bầu tâm sự”,  cô đơn, khổ sở. Do đó,  câu gạt gẫm:”Anh Yêu Em”, thật ra chỉ có nghĩa là “Anh Yêu Anh”(ngộ ái ngộ) mà thôi, vì anh chỉ muốn lợi dụng , chiếm đoạt em để thỏa mãn anh; khi đã được no đủ chán chê thì quẳng em đi như đồ phế thải. Nếu anh yêu em thật lòng, thì khi em gặp hoạn nạn, khó khăn, anh phải ra tay giúp đỡ, chứ không thể bỏ trốn trách nhiệm, mặc em bơ vơ.

 

b-/ Tình “Vị kỉ”(EROS) và “Vị Tha”(AGAPE): Khác Biệt và Duy Nhất (coi số 3-8)

- ĐỨC GIÁO CHỦ đã nêu gương sáng cho thời đại chúng ta, khi Ngài dùng những ngôn ngữ, những tư tưởng của các nhà triết học, xã hội học, kinh tế học..để minh giải  những “Chân Lý Mạc Khải, Phổ Biến”, giúp cho các dân tộc ngoài-Thiên Chúa Giáo dễ hiểu, nên dễ chấp nhận. Thật vậy, để phân giải nỗi khúc mắc, éo le của con tim( như Pascal đã nói: Le coeur a ses raisons que La Raison ne connait pas: trái tim có những lý lẽ của nó mà chính Lý Lẽ lại không biết), ĐTC đã dùng Phạm Trù “eros”và “agape”trong Triết Lý Hy lạp, để phân tách và gỡ rối cho “mối bòng bong tơ lòng”của người đời.

1- Phận Loại Tình Ái “Eros”và Tình Ái “Agape : Khác biệt và Hòa hợp (coi: số 3)

 Ngài đã phân loại  Tình Yêu làm hai cấp bậc tuy khác biệt nhau, nhưng phải  ràng buộc lẫn nhau, hiệp nhất vời nhau thì Tình Yêu mới đầy đủ, chân thật. Một cấp bậc gọi là: EROS: ( erotique Amour), được chuyển ngữ là”Tình Yêu VỊ KỈ”.  Loại Tình yêu này chỉ biết nhận lãnh, vơ vét, chiếm hữu cho mình, không cho ai khác. Đó là: Tình Yêu “Ích kỉ hại nhân”(cadao), Tình Yêu ấu trĩ, như trẻ nít hay giành giựt các trò chơi, kẹo bánh cho mình mà không chia sẻ với anh chị em. Một hạng Tình Yêu khác gọi là AGAPE( charitable Amour) chuyển dịch là “Tình Yêu VỊ THA” . Đó là Tình Yêu vươn ra ngoài cái “Tôi Ích Kỉ”,( cái Tôi đáng ghét, Le Moi est haissable), cái “Ngã” ( tham –sân- si), hạn hẹp, để hướng về Tha Nhân,  như đối tượng, như mục đích của Tình yêu. Tình Yêu Vị Tha sẵn sàng “cho đi”,  HY SINH  thời giờ, tiền bạc, sức lực để giúp đỡ những người mình yêu mên khi gặp  đau khổ, thiếu thốn. Đó là Tình Yêu Vị Tha của Cha Mẹ hy sinh nuôi nấng dạy dỗ con cái, Tình Yêu chung thủy của đôi vợ-chồng hy sinh đời sống cho nhau.

- Tình Thương Vị Tha cao cả nhất, mà Thiên Chúa đã ban cho Nhân Loại:chính là TINH YÊU THƯƠNG NHẬP THÊ của Chúa Cúu Thế. Vì Yêu Thương vô cùng, Chúa GiêSu đã xuống thế làm người phàm như chúng ta, chịu Khổ hình, chịu Chết để chuộc tội cho nhân loại, và đã Phục sinh vinh hiển để ban cho chúng ta đời sống vĩnh phước.

- Việc phân loại Tình cảm con người ra hai loại như trên, cũng đã được các Đạo giáo Việt Nam giảng dạy. Nhà Phật cho rằng mọi điều xấu đều do “cái Ngã”, hợp thành bởi năm yếu tố gọi là “Ngũ Uẩn”, tạo nên Dục Vọng,  nhất là ham sống, và hưởng lạc. Do đó, muốn được giải thoát khỏi vòng Luân hồi, Nghiệp báo, thì phải “Diệt Dục”, tức diệt cái Ngã, phá vòng Nhân-Duyên, để siêu thoát lên Cái Đại Ngã rộng lớn. Nhà Nho như Vương Dương Minh chủ trương: cái Tâm của con người có phần sáng láng, tốt lành, nhưng cũng có phần tối tăm, ví như viên  Ngọc bị cát bụi bám vào.

Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài,

Cũng thành vô dụng cũng hoài Ngọc đi  (ca dao)

 Do đó, việc tu thân cần tẩy trừ phần xấu, ích kỉ, tư lợi, để làm sáng tỏ cái ĐỨC” tốt của con người, bằng cách thi thố những việc ích quốc lợi dân, và luôn hướng thượng, chỉ dừng lại ở điều Thiện Hảo:(”Đại học chi Đạo tại minh Minh Đức”, tại Thân Dân, tại chỉ ư Chí Thiện)( đọc thêm: “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo” trang:8184;126-130;303-308)

2- Hội Thánh có chủ trương triệt tiêu, hủy diệt Tình Vị kỉ”Eros” không?(coi: số 4)

Hội Thánh có kết án “Eros”, Tình Vị kỉ của con người là hoàn toàn xấu, phải trừ diệt không? Con người có thể  hoàn toàn triệt để “Diệt Dục” được không? Theo Truyền thống  Hội Thánh Công giáo, các vị thần học gia như Thánh Tôma, như ĐTC Gioan Phao Lô II( coi:”Thần Học về Thân Xác”), thì không cho Tình Eros tự bản thể nó là xấu, vì do Thiên Chúa phú bẩm cho con người. Tình Eros, Vị Kỉ chỉ xấu khi tự nó không vươn lên Tình Agape, Vị Tha, khi người ta tôn thờ nó như một vị thần dâm dục, chỉ tìm khoái lạc cho riêng mình, và không đếm xỉa gì đến người khác. Do đó, Tình Eros, Vị Kỉ cần được thanh luyện, thăng hoa lên Tình Agape, Vị Tha, thì mới tránh khỏi gây ra các tội ác về lạm dụng Tính Dục.

- Ngày nay, ta thấy nhan nhản trong xã hội vật chất vô thần, tiêu thụ, những hình thức biểu lộ thái độ tôn sùng “Eros”, chỉ tìm khoái lạc cho mình, mà coi tha nhân như một “đồ vật”, để tiêu khiển, chứ không phải một con người có nhân vị cao quí đáng tôn trọng, Những tệ nạn xã hội, thiếu Tình Vị Tha, Thương Người như: hiếp dâm, thủ dâm, ngoại tình, phá thai, chửa hoang, mại dâm, buôn bán người phụ nữ, bắt cóc trẻ em, hộp đêm, sách báo, Internet, phim ảnh khiêu dâm.v,v , khiến đời sống tình cảm, tình ái, đặc biệt của giới trẻ bị  thác loạn tinh thần, thích bạo động, bắn giết.

3- Hội Thánh Công Giáo chủ trương: con người có Xác và Hồn (số 5).

 Theo Truyền thống, Thiên Chúa Giáo vẫn chủ trương: Con Người toàn diện gồm có XÁC và HỒN. Thân Xác tự nó có giá trị, đáng tôn trọng; nhưng nếu chỉ tôn sùng thân xác, lo tìm thỏa mãn cho Xác mà thôi, thì sẽ sinh ra những điều tệ hại làm huỷ diệt toàn bộ con người. Xác không đối nghịch với Hồn, Vật Chất không chống lại Tinh Thần, nhưng Xác –Hồn Hòa hợp làm nên con người toàn vẹn. Tình Yêu Thương chân thật giữa Vợ-Chồng phải được hòa hợp cả Thân Xác và Linh Hồn. Vợ hay Chồng không thể coi nhau như những, “món hàng mua được” hay“đồ vật”dùng để thỏa mãn những đòi hỏi say đắm thuần tuý sinh lý, nhưng  luôn  thăng hoa lên một Tình Yêu “Vị Tha”, nghĩa là chung thuỷ, sống chết vì người mình trao thân hiến xác. Do đó, Kinh Thánh đã dùng hình ảnh “Tình Yêu Thương của Vợ-Chồng”, để sánh ví với Tình Thương vô vị lợi, vô điều kiện, vô biên của Thiên Chúa đối với Nhân Loại, và phải noi gương Tình Thương cao cả đó để tình Yêu Thương của Vợ-Chồng được thanh luyện, thăng hoa, hòa hợp nên một. Trong việc khắc kỉ, tu đức, Hội Thánh kết án những phương pháp hành hạ Thân xác một cách quá đáng, sinh ra bệnh tật, làm mất sức khoẻ.  

- Trong Văn Học Sử Việt Nam, Thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939)đã viết bài thơ ”Vịnh bức dư đồ rách”, khi ngắm nhìn bức “Địa đồ” Nước Việt, treo trên tường, đã bị  rách nát, để cảm thương phận đầy đọa của một Nước Việt dưới ách đô hộ. Trong đó có câu:

“Mình với ta, tuy Hai mà Một,

Ta với mình, tuy Một mà Hai”

Chữ “Mình”(tiếng vợ- chồng gọi nhau) ở đây, chỉ Non sông đất Việt, chỉ đồng hương Việt được thi sĩ sánh ví như Tình Nghĩa Vợ-Chồng. Vì lòng ái quốc, thi nhân coi mình như một phần tử của đất nước, luôn yêu mến, hiệp nhất, đoàn kết với mọi công dân trong nước.Thi sĩ không  muốn hưởng thụ một mình, “vinh thân phì da”, mà bỏ Lý tưởng Vị tha, Nghĩa đồng bào. Sau này,  hai vần thơ  tuyệt cú này, thường được áp dụng để diễn tả  mối Tình chân thật giữa Vợ-Chồng, vừa giữ được cá tính, nhân vị riêng biệt, vừa Vị Tha, tôn trọng lẫn nhau. Đó cũng là ý nghĩa của câu Ca dao Tục ngữ, tương tự như câu  trong  Kinh Mười điều Răn: “Trước kính mến Một Đức Chúa Trời, sau lại”Yêu người như mình ta vậy.Amen.( Sách Kinh Địa phận Hà nội):

Thương Người như thể Thương thân” (ca dao)

4- Tình Yêu Thương Vị Tha Được Mọc Lên từ Tình  Yêu Thương Bản Năng Vị Kỉ (coi số 6-7).

Đây là một Truyền Thống đặc thù của Thiên Chúa Giáo, bắt nguồn từ Kinh Thánh. Tình Yêu “Eros” Vị Kỉ,  nhận lấy cho mình rồi, phải được phân phát đi cho người khác, tức Tình Yêu Vị Tha . Hai động tác “nhận lấy-cho đi”, luôn sánh vai cùng một nhịp, không thể hoàn toàn tách rời nhau. Nếu chỉ bo bo giữ lấy cho mình, thì đời sống ích kỉ, “đóng khung, khép kín”  đó,  không  được mở rộng và sẽ trở nên nghèo nàn, bần tiện, keo kiệt. Theo thần học và triết học Thiên Chúa Giáo, có một sự luận lý nội tại, một sự liên quan về yếu tính giữa Tình Yêu Vị Kỉ và Tình Thương Vị Tha, nghĩa là  Vật Chất liên hệ với Tinh Thần, từ Tình vật dục(amor concupiscentiae) chuyển sang Tình từ thiện( amor benevolentiae). Ngược lại, người ta cũng không thể chỉ “Cho đi”, mà không “nhận lấy”. Bởi vì, ai yêu thì cũng muốn người mình yêu, yêu lại. Vả lại, nếu không nhận lãnh thì lấy gì mà phân phát cho người khác:

“có đi có lại mới toại lòng nhau” (ca dao)

- Sách Kinh Thánh đã minh chứng  sự liên hệ giữa hai loại Tình Yêu Thương đó. Trong Sách “Diễm Ca”, nguyên thủy là những lời ca tụng Tình Yêu của đôi vợ -chồng trong hôn nhân. Sau này, các vị thần bí(Mystic) đã thăng hoa mối tình tự nhiên để áp dụng vào Tình Yêu giữa Dân Do Thái và GiaVê, hay Tình Thương giữa Chúa và Linh Hồn.

 Chúa Cứu Thế cũng nói:” Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta,  thì sẽ bảo tồn được mạng sống”(Lc, 9; 24; Mt, 10:39). Đặc biệt Chúa nhấn mạnh đến sự liên hệ giữa Thập Giá và Phục Sinh:” Hột lúa rơi xuống đất và chết đi, thì sẽ sinh ra nhiều hạt khác”….. Gioan, 12:23-25)

Nói tóm lại, chỉ có Một Tình Yêu, nhưng với nhiều khía cạnh biểu lộ khác nhau. Tình Yêu của con người cần noi theo Mẫu Mực của Tinh Thương bao la của Thiên Chúa, để thanh luyện và thăng hoa lên “Tình Mến Chúa và Yêu Người”là Một thực tại duy nhất.

- Trong Văn Học Sử Việt nam, từ Ca dao, Tục ngữ, Thi ca…không thiếu những áng thơ văn ca tụng Tình Ái của những “tài tử đa tình”như:        

 Cụ Nguyễn Công Trứ, một danh sĩ Việt Nam, văn võ kiêm toàn, có “tài kinh bang tế thế” như khai khẩn đất hoang miền Tiền Hải, Nga Sơn, giúp dân giầu nước mạnh..Vậy mà về vấn đề “Tình”, Kẻ Sĩ Nguyễn Công Trứ, cũng phải lúng túng, không hiểu nổi , chỉ biết nghe theo bản năng của con tim, như câu thơ, dưới đậy:

“Cái Tình là cái chi chi, Chi chi cũng chi chi với Tình” (Nguyễn Công Trứ)

Trong thơ văn và đời sống, có lúc ông đã buông thả theo dục vọng tự nhiên như trong bài thơ”Tuổi già cưới hầu” hay khi ông viếng chùa Thiên Tường trên núi Hồng Sơn, vẫn đem theo đào nương:

“Gót tiên theo đủng đỉnh một hai dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng

Có người phê phán thái độ của cụ Nguyễn Công là phạm đến danh giáo của Kẻ Sĩ. Nhưng nếu ta khảo sát toàn bộ thơ văn và đời sống của Nguyễn Công Trứ, ta sẽ nhận thấy nơi tâm hồn ông một “Chí  anh hùng”, luôn vươn lên một tình cảm thanh cao, để thực hiện Lý tưởng Vị Tha, vì Dân vì Nước. Ngay trong vấn đề Tình cảm, ông vẫn giữ được thái độ tôn trọng nữ sắc, chứ không có thái độ chiếm hữu, thưởng thức cho chán chê, rồi vùi đạp, bỏ đi:

Khuyên ai đừng dở truyện li phi:

Trân  trọng lấy hương trời cho trọn vẹn” (bài Chơi hoa)

L.M .Vũ Đình Trác đã bình phẩm như sau:”Như vậy ta mới hiểu nếp sống thái hòa là một nếp sống đầy thận trọng, vì tiểu ngã luôn luôn nằm trong Đại Ngã tâm Linh. Có thái hòa thì có giao hội có tương dung. Đó là căn bản của Đạo NHÂN( sách”Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ, trang 220).

- Đạo NHÂN là gì? Đây là Đạo Sống của Đức Khổng Tử chủ trương và các Nho gia tuân thủ trong việc Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ. Xét về Nguyên tự chữ hán(……..), chữ này gồm hai bộ: bộ nhân( …..) là người, và bộ nhị(……) là Hai. Đạo Nhân, chính là Đạo Nhân Ái, Đạo Yêu Người. Tình Yêu Thương chân thật là tình trao tặng giữa Hai Người, mới là Tình Vị Tha. Nếu chỉ kiếm lợi cho riêng mình, và làm hại người khác, là “ích kỉ hại nhân”. Trong ngôn ngữ Việt, kẻ tàn ác, hành hạ người khác, gọi là kẻ “bất Nhân”, nghĩa là không giữ Đạo Nhân, đồng thời không còn là con người nữa, vì mất nhân tính.

- Trong Giai thoại về một nhà Nho Việt Nam, Thi sĩ Chu Thần Cao Bá Quát, có kể câu chuyện như sau: Ông thua trận, bị triều đình bắt sống, trói chân tay, bỏ vào cũi, khiêng về Kinh đô để xử tội. Dọc đường, quân lính dừng lại bên một hồ ao để nghỉ mát, vì trời rất nóng. Để thử tài văn chương đối đáp của thi nhân, một viên đội mới ra vế đối:

Nước trong leo lẻo, cá đớp cá”

Nho Sĩ họ Cao, liền đối lại:

Trời nắng chang  chang, người trói người

 

c/- Đặc Điểm Tân Kỳ của Niềm Tin trong KINH THÁNH (coi: số 9-11)

1- THIÊN CHÚA GIÁO là một Tôn giáo Độc Thần. Theo Kinh Thánh trong Cựu Ước và Tân Ước, chỉ có MỘT Vị Chủ Tể  tạo thành muôn sự muôn loài, hữu hình và vô hình. Thiên Chúa là Đấng  Sáng Tạo và An Bài vũ trụ càn khôn.

Thiên Chúa là NGÔI VỊ, cầm quyền sinh tử, phán xét, định đoạt Công-Tội, và lắng nghe Nhân Lọai KÊU CẦU, NGUYỆN XIN. Thiên Chúa không phải là một Nguyên Lý vô hình vô tượng, trừu tượng, vô-bản -vị( impersonal) như các nhà triết lý Đông –Tây tưởng tượng ra, nhưng Bản Thể của Thiên Chúa là TÌNH THƯƠNG. Ngài Yêu Mến mọi loài Ngài đã dựng nên, đặc biệt, Thiên Chúa Yêu Thương Nhân Loại.

- Thiên Chúa Yêu từng cá nhân, nhưng cũng thương hết mọi người. Có thể nói: Ngài vừa Yêu thương theo nghĩa “eros”, vừa theo nghĩa “Agape”. Thiên Chúa yêu thương và chọn dân tộc Do thái làm dân riêng , nhưng Ngài cũng muốn cứu chuộc tất cả nhân loại.

Vì thế, trong Kinh Thánh thường dùng Tình Yêu trong Hôn Nhân, Vợ-Chồng để sánh ví với Tình Yêu Thương Vô Cùng của Thiên Chúa đối với nhân loại. Bởi vậy, Vợ-Chồng muốn yêu thương cho phải Đạo Phu-Thê, thì phải học và bắt chước Mẫu mực nơi Tình Yêu của Thiên Chúa.

- So sánh quan niệm và Niềm Tin vào Một Ngôi Vị Thiên Chúa và các Triết Lý Siêu hình và niềm tin dân gian của dân tộc Việt Nam, ta nhận thấy những điểm tương đồng và khác biệt. Tín ngưỡng dân gian đặt niềm tin vào một vị Thần cao cả trên hết các thần thánh khác, Vị đó được xưng tụng là “ÔNG TRỜI”, hay Hóa Công: “Ông Trời có mắt”, nghĩa là Ngài hằng quan tâm xem xét, cai quản vũ trụ, nhân sinh. Khi ai gặp hoạn nạn mà kêu cầu, thì được Ngài cứu giúp. Niềm Tin vào “Ông Trời có Ngôi Vị”, cũng giống như tín ngưỡng của dân Trung Hoa, trong Kinh Thi, đã được Đức Khổng Tử san định.

Ngoài niềm tin vào Một Đấng  Thương Đế mà hằng năm vua quan đại diện toàn dân để tế lễ như Lễ Tế Nam Giao, các nhà nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam đã ghi  lại hai nhận xét sau đây: Một, ngoài niềm tin vào “Ông Trời”, dân chúng  Việt Nam còn thờ rất nhiều ‘Thần, Thánh”, ( đa thần, phiếm thần, polytheism, pantheism), cũng có quyền ban ơn giáng phúc, hay gây tai họa cho con người. (coi:  Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Từ Điển“Linh Thần Việt Nam”(NXB Văn Hóa Thông Tin, Hà nội,2002). Hai, các nhà Nho theo triết học Trung Hoa thời nhà Tống như Lý học, Tâm học, Đạo học, đều cho rằng: vũ trụ càn khôn phát xuất từ một Nguyên Lý siêu việt, vô tượng, vô thanh, vô sú, vô-bản-vị(impersonal) được gọi bằng danh xưng trừu tượng như: Đạo, Thái Cực, Vạn Vật Nhất Thể, Đại Ngã, Phật Tính..Những quan niệm siêu hình này, tuy diễn tả được bản tính cao siêu Tuyệt Đối của Thiên Chúa, nhưng lại phủ nhận ý niệm về “Ngôi Vị”(Personal God) trong Thiên Chúa Giáo, coi  “Ngôi Vị Thiên Chúa”và Bản Tính của Chúa phải hoàn toàn  KHÁC BIỆT và CAO SIÊU  hơn mọi loài thụ tạo. Con Người được Kết Hiệp với Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn giữ Thần Tính, và con Người vẫn giữ nhân tính của mình. Vì  nếu không phân biệt Đấng Tạo Hóa khác với các loài thụ tạo như loài người, thảo mộc, động vật, khoáng vật, nếu chủ trương:” Vạn vật nhất thể”, thì sẽ   không đặt ra  vấn đề Cầu Nguyện, và Lễ Bái nữa, vì ai cũng như ai, mọi loài mọi vật đều như nhau cả!

- Ngoài ra, cũng nên phân biệt hai quan niệm “TỪ BI” của Phật Giáo, và “BÁC ÁI” của Thiên Chúa Giáo. “Từ Bi”(Compassion) là lòng thương xót bao quát hết các sinh vật từ con kiến, con sâu đến con người, không phân biệt cá tính.  Đối với một Phật tử chân chính, cần phải thi thố công cuộc Bố thí,Từ Bi, vì là phương thế tốt để “Diệt Dục”, nghĩa là diệt được cái lòng tham, sân, si, cái “Ngã ích kỉ”, “yêu mình”, khiến tâm thần được thanh thỏa, “trống rỗng”, để hòa mình vào cái Đại Ngã mênh mông của vũ trụ. Bởi vậy, Từ Bi, Hỉ Xả chỉ là phương tiện, còn Diệt Dục mới là cứu cánh cần phải đạt tới. Trái lại, mục đích chính của Đức Bác Ái là: “ Mến Chúa và “Yêu Người”. Thiên Chúa là Nguồn Mạch, là Mẫu Mực của  TìnhYêu Thương Vị Tha.  Ai “Yêu Mến Chúa “, thì phải  thực hành  Đức Bác Ái Vị Tha như Chúa đã làm, phải noi guơng Chúa,  hy sinh tiền bạc, sức khoẻ, thời giờ..để giúp đỡ những người anh chị em đang đau khổ. Do đó, Thiên Chúa và Con Người là Mục đích phải nhằm tới, và công cuộc từ Thiện Bác ái chỉ là phương tiện giúp ta thi hành Đức Bác Ái( đọc thêm: “Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo, trang:229-255).

2-Tình Yêu Thuơng Tha Thứ, Cứu Chuộc của Thiên Chúa (coi: số 10)

Như đã trình bày ở trên, Tình Yêu Thưong của Thiên Chúa vừa là “Eros”, vừa là“Agape”, nhưng  là “Agape”, vô cùng hoàn hảo, vì là “Tình Yêu THA THỨ”, như trong trường hợp tiên tri Hôsê tha thứ cho bà vợ ngoại tình, ám chỉ Chúa cũng tha tội bất trung của dân Ích riên(Israel). Mầu Nhiệm THÁNH GIÁ minh chứng Tình Thương vô tận của Thiên Chúa đối với Nhân Loại tội lỗi. Mầu Nhiệm NGÔI LỜI NHẬP THỂ(Logos), lại càng biểu lộ Tình yêu “eros”, thiết tha, đăm mê và Tình Thương “Agape” tuyệt vời, cao quí. Sách Diễm Ca , diễn tả Tình Yêu Thương giũa Vợ-Chồng trong Hôn Nhân, theo các nhà thần bí(mystics), cũng ám chỉ “Tình Kết Hiệp Huyền Nhiệm”(mystical Union) giữa Thiên Chúa và Linh Hồn Thánh Nhân. Thiên Chúa Cao Siêu Vô cùng đã trở nên Một với con người, tuy bản tính Thiên Chúa vẫn không hề thay đổi, vẫn giữ trọn Thần Tính, và Linh Hồn vẫn giữ nhân tính của mình.

Đây chính là trạng thái” Thiên Đàng” mà Sách Giáo Lý Công Giáo gọi là:”Hưởng Kiến, Phúc Kiến, Hưởng Nhan Thánh Chúa”( beatific Vision). Sách Giáo Lý số 1025 dạy:”Đời sống Thiên Đàng chính là”Sống với Chúa Kytô”, sống trong Chúa Kytô, nhưng mỗi nhân vị vẫn giữ lấy căn tính riêng biệt của Mình”(coi thêm Sách: “Đạo Thiên Chúa và Dân Nước Việt” trang 417-421)

3- Quan Niệm Tiến bộ  về Con Người, và Hôn Nhân trong Kinh Thánh (coi:số 11)

Trong huyền thoại Hy lạp, triết gia Plato cho rằng: từ đầu con người tự coi mình là hoàn toàn, sung mãn. Để “trừng phạt” tội kiêu ngạo, nên thần Zeus mới tách con người ra làm đôi…  Kinh Thánh không đề cập đến việc “trừng phạt”, nhưng gợi ý rằng: con người nguyên thuỷ Adong, theo bản năng, cảm thấy mình cô đơn, lẻ loi, khiếm khuyết, nên cần một người bạn, giống như mình để trợ giúp mình, được hoàn chỉnh hơn. Do đó, theo Sách Sáng Thế, 2:23, Thiên Chúa đã dựng nên Bà Evà làm người “trợ tá”, là người bạn đời để bổ khuyết những gì Ông Adong mong đợi, tìm kiếm. Ông rất ưng ý hài lòng và thốt lên:”Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Và Kinh Thánh kết luận:” Bởi thế, Đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả Hai thành Một Xương Một Thịt”(Sách Sáng Thế, 2:24).

Ông Adong đã ra khỏi bản năng “Eros” cô đơn, vị kỉ, đóng kín, ”đã bỏ cha mẹ mình”, đã ra khỏi mình, để đi tìm người Nữ, người khác phái tính, để kết hợp nên Một cặp Vợ-Chồng Hòa Hợp,Trọn Vẹn. Đây chính là đôi Hôn Phối đầu tiên của nhân loại. Sự Phối Hợp trong hôn nhân giũa một người Nam và một Người Nữ, “Đơn Hôn”( monogamy), trong Tình Yêu Thương Vị Tha, cả “Hai nên Một”, chính là hình ảnh về “Thiên Chúa Độc Thần”. Hôn nhân dựa trên Tình Yêu Thương độc quyền, dứt khoát, là hình ảnh  về Tình Thương giữa Thiên Chúa và dân Chúa. Tình Thương Vị Tha vô cùng của Một Chúa Ba Ngôi, chính là Mẫu Mực cho Tình yêu Thương cho nhân loại.

- So sánh ý niệm về yếu tính của Hôn Nhân, Hôn Phối giữa một người Nam và một người Nữ, có thể nói: quan niệm về Phái Tính, Nam-Nữ, Vợ-Chồng..trong Văn Hóa Việt Nam, rất gần với giáo thuyết của Kinh Thánh, đã được ĐGC trình bày trong Thông Điệp:Thiên Chúa=Tình Thương. Theo các nhà dân tộc học, căn cứ vào những di tích Lịch Sử, và những Truyền thuyết, như Trống Đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ.., trong Ca dao, tục ngữ, đặc biệt Minh Triết “ÂM-DƯƠNG”, thì người dân Việt đã có một quan niệm cao quí về Hôn Nhân, về Nam-Nữ, về vị trí của con người trong vũ trụ.(coi: Sách: “Tìm về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm, trang 263-272)

Người cổ-Việt quan sát, nhìn ngắm những hiện tượng thiên nhiên, và đã biết “trừu tượng hóa” nghĩa là đặt thành những con số, những hình vẽ “tượng trưng”, để bày tỏ quan niệm, ý tưởng siêu hình. Chẳng hạn, cách vận chuyển đắp đổi, điều hòa của ngày-đêm, nắng –mưa, nóng –lạnh, đực-cái, nam-nữ..Những “Cặp Song-Trùng” này được phác họa bằng những nét thô sơ, tượng trưng như: Dương (___), nét thẳng, Âm (_  _), nét đứt , Dương là số Lẻ, ( 1,3,5..), Âm là số chẵn( 2,4,6..). Những gạch Âm-Dương, những con số chẵn –lẻ, kết hợp tạo nên muôn hình vạn trạng trong trời đất. Tại sao, Dương(Nam) là một nét ngang thẳng (__), Âm(Nữ) là nét ngang đứt làm hai(_  _)? Vì trong Âm, Nữ, Đàn Bà đã có khả năng mang thai(mẹ-con),  sinh ra một người khác. Do đó, theo quan niệm của người Việt, Âm-Dương, Nữ-Nam, không thể đứng một mình, nhưng luôn luôn kết hợp với nhau, bổ khuyết cho nhau  được quân bình, hoàn hảo, “Vuông-Tròn”. Chính trong sự phối kết đó, kết quả là “tác thành” bào thai, con cháu. Vì thế, mới có câu:”có Âm-Dương, có Vợ-Chồng” . Trong ”Thái Cực Đồ” : một hình tròn chia làm hai phần Trắng, Đen bằng nhau, một Chấm Đen ở trong phần Trắng, một Chấm Trắng ở trong phần Đen, có ý chỉ, trong  Dương(Trắng) đã có mầm mống Âm( chấm Đen), và  trong Âm(Đen) đã có mầm mống Dương(chấm Trắng). Đây là lẽ tương đối: có trắng vì có đen, cũng như có ngày là vì có đêm, có đàn ông vì có đàn bà…, hai cái tương đối luôn lôi kéo và bổ khuyết nhau, không tranh đấu,  không tiêu diệt, đàn áp nhau, nhưng hòa hợp, nâng đỡ nhau, vì cái này cần cái nọ.

 Đây là cách biểu lộ tuyệt vời về ý nghĩa Hôn Phối: “Cả Hai nên Một Huyết Nhục, Một Thân Thể”. Vì lý do đó, người Việt, quen gọi người phối ngẫu là:”MÌNH”.(tức thân thể). Trong Văn Chương Nghệ Thuật, Thơ Phú, Truyện như Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên, các thi nhân đề cao Tình Nghĩa Vợ -Chồng chung thủy. Bộ môn Tiểu Thuyết , Tuồng, Cải Lương..,.đều có Hậu”,nghĩa là kết thúc không bi thảm, không tan vỡ, li dị, bỏ nhau, bắn giết

Trong xã hội văn minh ngày nay, tục lệ cổ hủ “Đa Thê” đã bị bãi bỏ, từ hai ngàn năm nay, vì ảnh hưởng của Giáo Thuyết Thiên Chúa Giáo về Hôn Nhân:”Nhất Phu, Nhất Phụ”.

 

d/ Chúa GiêSu KyTô- Tình Yêu Thương Nhập Thể của Thiên Chúa (số 12-15)

1- Cạnh Sườn Chúa Bị Lưỡi Đòng Đâm Thấu”(số12)

- Trong Tân Ước, Thiên Chúa đã “Hiện thực”những lời hứa bằng hành động cụ thể là : Chính Chúa Cứu Thế Giáng  Sinh, làm Người để đi tìm những “con chiên lạc”là nhân loại lầm than, đau khổ. Những dụ ngôn như:”người con phung phá”, “người đàn bà tìm lại được đồng tiền bị mất”, chứng tỏ Thiên Chúa đã ra tay Hành động để cứu chuộc nhân loại. Hành động tự nguyện, chịu Chết trên Thánh Giá, là Tột Đỉnh của Tình Yêu Vị Tha. Bởi vậy, cần phải nhìn ngắm, chiêm niệm: “cạnh sườn Chúa bị lưỡi đòng đâm thấu”(Gioan,19:34), để hiểu biết ý nghĩa của Thông Điệp:”Thiên Chúa là Tình Thương”(I Gioan, 4: 8)

2- Nhiệm Tích Thành Thể là Nhiệm Tích Tình Thương ( số 13)

- Chúa Cứu Thế đã lập Nhiệm Tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Ngài đã tiên báo về cái Chết và Sống lại, bằng hành động  trao cho các môn đệ chính Bản Thân Ngài là Mình và Máu Ngài, trong hình Bánh và hình Rượu như manna mới(Gioan,6:31-33)

Chúa Giêsu là “Ngôi Lời”(Logos) của Thiên Chúa, đã trở nên của ăn đích thực để nuôi dưỡng nhân loại. Trong Nhiệm Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã “Trao Ban” chính Mình để làm của Ăn, đã hạ Mình xuống đến cùng tận để kết hiệp với con người. Ngày xưa, trong Cựu Ước, Hình ảnh cuộc Hôn Nhân giữa Thiên Chúa với dân Isrsel, được hiểu là sự hiện diện của Chúa với dân Ngài, thì nay đã trở thành sự  Hiệp Nhất với Thiên Chúa, qua việc Chia sẻ Mình và Máu Thánh của Chúa Giêsu.

- ĐTC Bênêditô XVI là Vị Giáo Chủ lỗi lạc về phương diện trí thức, uyên bác về học vấn, vì đã làm giáo sư Thần học, là Bộ Trưởng Thánh Bộ Đức Tin..trong nhiều năm trước khi lên làm Giáo Chủ. Do đó, Ngài thường dùng điển tích hay ngôn ngữ trong Triết Lý La-Hy để giải nghĩa Kinh Thánh. Thật là một mẫu mực cho các nhà thần học, giáo lý viên, khi giảng giải Đạo Mạc Khải cho các dân tộc địa phương. Danh từ gốc Hylạp“Logos”, nghĩa là “lời nói”(word), đã được các triết gia Hylạp dùng theo ý nghĩa Triết học riêng của họ. Chẳng hạn, Heraclitus(chết -480 B.C) dùng chữ này để chỉ một “Thượng Trí siêu phàm(Intelligent non-human) xếp đặt vũ trụ cho có trật tự; các nhà hiền triết “Sophists” dùng theo nghĩa “Luận Lý”(logic, argument..); các “Stoics”(  Stoicism, phái Khắc kỉ, 300, B.C), dùng Logos, chỉ vị thần Thượng Trí, nguồn gốc của Lý Trí trong vũ trụ. Sau đó, tư tưỏng gia  “Philo of Alexandria”(chết -50 B.C) dùng chữ Logos trong các bài suy luận về  Do Thái Giáo. Các tín hữu thời sơ khai đã dùng chữ Logos này trong một bản Ca Vịnh ngợi khen Chúa Kytô, và Thánh Gioan Tông Đồ coi việc dùng danh từ này là thích đáng, nên đã  đưa vào Đoạn Đầu Sách Phúc Âm theo Thánh Gioan. Sau này, các Giáo Phụ vẫn tiệp tục dùng chữ “Logos”, theo nghĩa “Ngôi Lời Thiên Chúa”trong Thần học, Phụng vụ.

- Bên Á Đông,  nhà ngoại giao và học giả danh tiếng của Trung Hoa, ông Ngô Kinh Hùng , đã dùng danh từ “ĐẠO”(…….) vẫn quen thuộc trong các Đạo giáo, Triết lý Á Đông như: Lão Giáo, Khổng Giáo, Phật Giáo,  để dịch  chữ “Logos” trong “Đoạn Mở Đầu” của “Phúc Âm theo Thánh Gioan” ra tiếng Trung Hoa( loại cổ văn). ĐTC PiôXII đã đề tựa cho bản dịch này. (Đọc thêm sách:”Thiên Chúa Giáo và Tam Giáo”, trang: 351-354)

Chữ “ĐẠO” trong Hán văn và Việt văn có nhiều nghĩa: “ĐẠO” theo Lão Tử trong “Đạo Đức Kinh”Một Nguyên Lý Tuyệt Đối Siêu Việt: Vô Danh, Vô Hình, Vô Tượng,  là Căn Nguyên sinh ra muôn vật muôn loài. Chữ “Đạo” có nghĩa là “đường đi”, cũng có nghĩa là “lời nói” như: đàm đạo . Ngô Kinh Hùng dịch: Gioan, 1:1-3.. như sau:

Thái sơ hữu ĐẠO, dữ Thiên Chủ giai, ĐẠO tức Thiên Chủ, tự thuỷ dữ giai. Vi ĐẠO vô vật, vật nhân ĐẠO sinh, thiên địa vạn hữu tư ĐẠO dĩ thành..

3- Tính Cách Xã Hội, Cộng Đồng, Hiệp Thông của Nhiệm Tích Thánh Thể (số 14)

Bí Tích Thánh Thể là một “Huyền Nhiệm” mang tính chất Cộng đồng, Xã hội, vì ai hiệp thông với Bí Tích này, thì Kết Hiệp với Chúa và với tất cả những người khác cùng hiệp thông, cùng tham dự, như Thánh Phao Lô dạy:”Bởi vì chỉ có Một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng Một Tám Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta chỉ là Một Thân Thể”(1 Cor 10:17). Do đó, Hiệp Thông với Chúa Kytô, cũng là Hiệp Thông với nhau. Chúng ta trở nên “Một Thân Thể” hiệp nhất toàn vẹn trong một đời sống duy nhất. Tình Yêu Chúa , Thương Người thật sự liên kết với nhau: Thiên Chúa Nhập Thể, làm Người, đã lôi kéo hết thảy chúng ta về với Ngài.

- Tại sao Bí Tích Thánh Thể cũng được gọi là “AGAPE”? Tình Yêu vô cùng Vị Tha  của Thiên Chúa, chính là“Agape”của Chúa, đã đến với chúng ta  bằng  xương thịt, để tiếp tục công việc của Ngài trong chúng ta, và qua chúng ta.

Tất cả Lề Luật và các Tiên tri, đều tóm lược vào một giới răn gồm hai mặt: Mến Chúa và Yêu người . Đây cũng là trung tâm điểm của đời sống Đức Tin. Đây không chỉ là vấn đề luân lý, đạo đức(ethos) có thể tách biệt và song song với Đức Tin nơi Chúa Kytô. Ba điều quan trọng: Đức Tin nơi Chúa Kytô, Thờ Phượng Ngài khi cử hành các Bí Tích, và Giới Răn Mến Chúa, Yêu người, luôn đan quyện vào nhau như một thực tại thuần nhất. Do đó, Tham dự Thánh Lễ phải đi đôi với việc thực hành một cách cụ thể công việc Từ Thiện Bác ái. Việc Rước Lễ, Hiệp Lễ phải gồm hai mặt một trật: trước là ta được Chúa Yêu, nên quá bộ đến ngự vào “nhà ta”, sau đó, ta cũng phải “ra đi”thông hiệp với anh chị em, vì tất cả mọi người đều là con Chúa.

- Trong Phụng vụ Công Giáo, về nghệ thuật hội họa, và ca vịnh, hay dùng hình ảnh con chim”Bồ nông(pelican) đang xỉa vào thịt để máu chảy ra cho con uống, tượng trưng cho “Bí Tính Thánh Thể” như bài ca: “O memoriale” có Đoạn Thơ:

Pie pelicane, Jesu Domine,

me immundum munda tuo sanguine,

cujus una stilla salvum facere

totum mundum quit ab omni scelere…”

( Lạy Chúa Giêsu, “Bồ Nông Thánh”, Chúa rửa con nên  tinh sạch nhờ Máu Thánh Chúa, một giọt Máu của Chúa làm cho cả thế  gian được cứu chuộc khỏi mọi tội lỗi”).

- Trong Văn hóa Việt Nam, hình ảnh “con cò lặn lội bờ sông”, cũng diễn tả lòng vị tha của người phụ nữ Việt, tận tuỵ, hy sinh cho chồng cho con:

“Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non”…

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”… (Tú Xương)

- Bữa Ăn, đối với người dân Việt,  biểu lộ tinh thần Cộng Đồng, Chia sẻ, Tình Thân Thiện của người dân Việt, có nhiều đặc điểm như sau: Trước hết là chữ “ĂN” được ghép thành nhiều danh từ kép như: Ăn mừng, Ăn cưới, Ăn đám hỏi, Ăn Tết, Ăn khao, Ăn Dám Giỗ, Đám Tang ., nghĩa là dùng bữa ăn để chia sẻ với bà con, bạn bè mỗi khi có dịp chia  vui hay  chia buồn. Ca dao, tục ngữ có câu:

- “Trước  Lễ Thánh, sau “đánh chén

( Ăn tiệc, hay chia phần ăn cho người tham dự Thánh Lễ)

-  “ Một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” (tục ngữ)

-  “ Rượu ngon không có bạn hiền,

“Không mua, không phải không tiền, không mua” (Nguyễn Khuyến)

- Tính chất Cộng đồng, thân mật, trong cách xếp đặt chỗ ngồi chung quanh một chiếc mâm tròn, đặt trên chiếu, hay trên tấm phản. Cách thức tổng hợp điều hòa”âm-dương” trong việc pha chế nêm nhiều thứ gia vị vào món ăn, để thêm hương vị. Cùng nhau”tay làm hàm nhai”, trong cách cuốn bánh tráng với các thứ rau, thịt, cá nướng, tôm..khi ăn “gỏi cuốn”hay khi ăn “gỏi cá sống”.Ngoài ra, các món ăn được thái nhỏ, đặt thành từng đĩa lớn, hay tô canh và một nồi cơm lớn, để cùng nhau chia sẻ các phần ăn cho đồng đều:  , không ăn mất phần của người khác. Đôi khi bất chợt có khách hay bà con đến thăm, cũng được mời dùng bữa, gọi là “thêm đũa thêm chén”, vì mọi người đều biết “tự chế” để đãi khách. Con cháu trong nhà cũng được ngồi chung với ông bà cha mẹ, anh chị em. Bữa ăn là dịp tốt để  giáo dục con cháu biết “kính trên nhường dưới”,”ăn trông nồi ngồi trông hướng”, biết “làm Dấu Thánh Giá “mời cả nhà dùng cơm” trước khi ăn. Con trẻ phải tập cầm đôi đũa,  so cho đều, gắp cho khéo,  nhất là  đừng tham ăn quá độ:”no bụng đói con mằt”, chớ ”và lấy và để” .

4- Các Dụ Ngôn để Giảng Nghĩa về Tình Yêu Thương của Thiên Chúa(số15) 

ĐTC đã đề cập ở trên về danh từ”Logos”, Chúa Cứu Thế là “Ngôi Lời”của Thiên Chúa đã bày tỏ ra cho nhân loại biết về Bản thể của Thiên Chúa :”Thiên Chúa = Tình Thương. Đây là một Mầu Nhiệm cao siêu, cần dùng những hình ảnh cụ thể hữu hình để giải thích cho đại chúng dễ hiểu. Vì thế, Chúa Cứu Thế thường dùng những”DỤ NGÔN” để giảng dạy, tức là dùng những câu truyện thường xẩy ra, những sinh hoạt trong xã hội, hay những hiện tượng thiên nhiên.., để giảng những mầu nhiệm về Nước Trời, hay những bài học luân lý.

Sau đây, là  ba Dụ Ngôn dùng làm Tiêu Chuẩn để phán xét, phán đoán về Đức Bác Ái.

- Dụ Ngôn về Ông Lagiarô, nhà giầu keo kiệt(Luca, 16:19-31). Chúa có ý cảnh cáo những người còn đang sống ăn chơi phung phí tiền bạc, không làm việc Phước Thiện, hãy coi chừng, một ngày sẽ bị luận phạt như ông”Lagiarô keo kiệt

- Dụ Ngôn”Người Samaritanô nhân hậu”(Luca, 10:25-37) giúp ta mở rộng Tình Thương đến cho mọi người, thân cận, ruột thịt cũng như xa lạ, đồng hương cũng như khách ngoại kiều. Vì Mọi người trong gia đình nhân loại đều là con cái của Một Chúa. Vả lại, Tình Yêu Thương thật không phải là tình “thương hại”, thương xót, mơ hồ, trừu tượng, hay xúc động  nhất thời, nhưng là tình Bác Ái cụ thể, nhằm cứu vớt anh chị em đang đau khổ” bây giờ, ở đây(hic et nunc). Hội Thánh Công Giáo phải lưu tâm đặc biệt các tín hữu về  bổn phận, và đòi hỏi này.

- Dụ Ngôn về Tiêu Chuẩn mà Chúa dùng  để  Phán Xét, Phân xử Kẻ Lành, Người Ác

Trong Ngày Chung Thẩm của Thế giới( Matthêu, 25:31-46). Tiêu Chuẩn để định đoạt số phận của mỗi người là:”Chúa đồng hóa với Người đói khát, khách ngoại kiều, đau yếu, tù  đầy”, nghĩa là Chúa sẽ áp dụng triệt để nguyên tắc:”MÊN CHÚA YÊU NGƯỜI= MỘT, để phán Xét Công –Tội cho mỗi người.

- Trong việc Tu Thân Tích Đức, người dân Việt theo nguyên tắc lấy chính bản thân mình làm”khuôn vàng thước ngọc”, để đo mức độ luân lý, đạo đức, vì thế có câu: “Điều gì mình không muốn, thì đừng làm cho kẻ khác”( Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân). Do đó, một cách thực tế, nếu mình không muốn bị vu oan, thì đừng bỏ vạ cho người khác; mình không muốn đói khát, thì hãy giúp người nghèo khổ…Câu ca dao cùng một nghĩa, một tiêu chuẩn, “Lấy bản thân làm Thước đo người”, như;” 

“Thương người như thể thương thân

- Trong kho tàng quí giá “Ca dao, Tục Ngữ, câu Vè câu Đố, Hát đối, Trống quân, Truyện Cổ tích,( Trầu cau), Ngụ ngôn(Lục súc trnh công)…, người dân Việt cũng thành thạo trong việc dùng “Dụ ngôn”, nghĩa là  đi từ những  cảm giác của ngũ quan( Vật chất )để sánh ví một cách tương tự(analogy) lên những Chân lý, Thực tại vô hình (Tinh Thần). Đây là cách giáo dục vừa quân bình, vừa hiệu nghiệm đối với quần chúng,  nhất là với trẻ em, như câu:

“Cá không ăn muối cá ươn,

Con cưỡng cha mẹ, trăm đường con hư”

 

e/ Mến Chúa Yêu Người (coi số 16-18)

1- Giải đáp vấn nạn: tại sao Mến Chúa cũng phải Yêu Người và tại sao tình yêu lại có thể là một mệnh lệnh? (số 16)

-  Thánh Gioan Tông đồ viết:”Nếu ai nói rằng:”tôi mến Chúa, mà lại ghét người anh em, thì nó là kẻ  nói láo; vì nếu nó không yêu người anh em nó nhìn thấy, thì nó không thể mến Chúa là Đấng nó không thấy”(I Gioan, 4:20). Ta phải hiểu ý nghĩa của câu đó như thế nào? Y nghĩa của bản văn này không loại trừ việc Yêu Mến Chúa, coi đó như  là điều không thể được. Trái lại, việc Yêu Mến Thờ Phượng Chúa là một Mệnh Lệnh, một đòi hỏi phải làm. Ở đây, Thánh Tông Đồ có ý nhấn mạnh: Tình Mến Chúa và Yêu người liên hệ mật thiết với nhau, không tách biệt được, đến nỗi mất điều này thì cũng chẳng có điều nọ. Vì thế, ai nói Mến Chúa mà lại ghét người ta, là mâu thuẫn, là nói dối. Vậy, nên hiểu ý Thánh Gioan là: Yêu Người là  đường dẫn ta tiến lên cùng Chúa. Nếu nhắm mắt làm ngơ đối với tha nhân, thì cũng đui mù không nhìn thấy Chúa nữa.

- Ngày nay, trong các sinh hoạt mục vụ, hay cứu tế xã hội của các Cộng đồng Công Giáo, cũng thường nêu lên những thắc mắc, tranh luận về ý nghĩa chân thật của “Tình Mến Chúa, Yêu người”, như Thánh Gioan và ĐTC Bênêditô XVI, đã giải thích. Chẳng hạn, có nên xây cất một Thánh Đường đồ sộ, nhà Xứ sang trọng, giữa một khu lao động nghèo khổ, nhà cửa lụp sụp, tồi tàn của giáo dân? Hay là đập phá một Nhà Thờ còn tốt, để xây một Nhà Thờ mới, trong khi cả xóm dân nghèo không có phòng Phát thuốc, không có nhà giữ trẻ cho dân chúng Lương-Giáo?

Tuy chưa vươn tới một mức tuyệt cao là đồng hóa tình Thương người với tình Yêu Thiên Chúa như Chúa Cứu Thế dạy, nhưng nền Đạo Đức, Luân Lý của dân Việt  cũng đã đạt tới một trình độ đáng ca ngợi, khi  phải xếp đặt các ưu tiên trong việc cứu trợ khẩn cấp các nạn nhân  lâm vào tình trạng nguy kịch, như câu ca dao, trong “Việt Nam phong sử” :

“ Dẫu xây chín cấp phù đồ (chùa tháp để thờ Phật)

Không bằng làm phúc cứu cho một người”

3- Thiên Chúa  là Đấng ta có thể tiếp cận được, dầu chưa nhìn thấy.(số 17)

Thiên Chúa đã Yêu Thương Nhân Loại trước, đã đến với chúng ta trước, khi Chúa sai Con Một là Chúa Cứu Thế xuống trần gian để Cứu Chuộc chúng ta, cho chúng ta được sống:”(Coi:1 Gioan, 4:9). Thiên Chúa đã tự trở nên Hữu Hình: nơi Chúa Giêsu, ta có thể nhìn thấy Chúa Cha: (coi:Gioan, 14:9)

 Theo những sự kiện, biến cố tường thuật trong Kinh Thánh,  thì Thiên Chúa đã Hiện Diện giữa chúng ta bằng nhiều cách thế, để mời gọi ta đáp trả lại Tình Thương của Chúa:- Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể để Hiện Diện với chúng ta, cạnh sười bị đâm thấu, chịu Chết trên Thánh Giá, và Sống Lại. Ngài đã hiện ra nhiều lần để hướng dẫn, chỉ đạo cho các Tông đồ đi rao truyền Tin Mừng. Ngài hiện diện trong Các Bí Tích, đặc biệt trong Phép Thánh Thể. Chu kì Phụng vụ diễn lại cuộc đời của Ngài, để các tín hữu cảm nghiệm được Ngài có mặt trong đời sống thường nhật. Thiên Chúa đã Yêu Thương chúng ta trước, và còn tiếp tục Yêu Thương mãi, để ta đáp lại Tình Thương ấy, một cách chân thành, từ nội tâm chúng ta.

-  Theo ĐTC Beneditô XVI, đã viết trong Thông Điệp, thì “Tình Yêu Thương” trong Mạc Khải không phải là “cảm xúc nhất thời”, có rồi thôi, đến rồi đi. Nhưng Tình Yêu Thương Thật , phải lôi cuốn toàn thể con người, huy động mọi tiềm năng trong con người: thân xác, trí tuệ và ý chí. Tình Yêu”eros”, khi đã được thanh luyện, trưởng thành cũng trở nên hoàn toàn, viên mãn, không còn “vị kỉ” nữa. Tình Yêu chân thật đối với Chúa là tuân theo Ý Chúa, là  lời “Xin Vâng”. Tình Yêu Thiên Chúa luôn tăng trưởng không bao giờ “hoàn tất”. Con người càng ngày càng Kết Hiệp thân mật với Chúa hơn, nghĩa là Thánh Ý Chúa không phải là từ bên ngoài áp đặt như một giới răn, nhưng cũng chính là ý muốn của tôi. Thiên Chúa hiện diện trong tôi, còn sâu xa hơn chính  mình tôi.”Tâm tình tự Phú thác cho Chúa được tăng trưởng, để Chúa là Niềm Hoan Lạc của chúng ta.( coi: Thánh Vịnh 73{72}:23-28)

- Trong Triết lý Việt Nam, theo Khổng giáo, từ nhà cầm quyền như vua chúa, quần thần , giới nho sĩ  đến dân chúng, đều tin tưởng và tuân theo “Mệnh Trời”, “Thiên Mệnh” hay “Đế Mệnh”, tức là Ý Chí của Trời, coi là điều  quan trọng hơn hết. (coi: Nho Giáo, quyển thượng, mục Thiên Mệnh, trang 85-87). Học giả  Trần Trọng Kim đã trích dẫn những lời giảng dạy của Khổng Tử để bàn về ý nghĩa chữ “Thiên Mệnh”, hay “Ý Trời” như sau:-“ Không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử”( quân tử, là bậc thánh hiền trong Đạo Khổng). Do đó, mọi người phải “Tri Mệnh”, tức là biết vui theo Ý Trời mà sinh sống, cư xử cho hợp với ĐẠO TRỜI, và đạo làm người, không được theo ý riêng, theo tư tâm vị kỉ của mình. Nhưng biết được Ý Trời mà tuân theo là điều khó, cần phải cố gắng tu luyện bản thân lâu năm. Đức Khổng  Tử, lúc năm mươi tuổi mới biết được Mệnh Trời:” Ngũ thập nhi tri Thiên Mệnh”. Theo Ngài, Thiên Mệnh không phải là “số mệnh”, hay là “định mệnh” làm mất tự do lựa chọn, khiến con người trở nên nhu nhược, thụ động, buông xuôi, vô trách nhiệm. Trái lại, con người phải dùng “năng lực tự do để tự cường tự kiện..”, nghĩa là cố công  tìm hiểu Ý Trời và các hành động của Trời, để con người đem hết ý chí, nghị lực mà  hòa hợp với Thiên Ý, để cộng tác với Trời, đôn đốc và vun đắp những gì là tốt đẹp thì càng thêm hoàn hảo. Chữ”Tự do”, không có nghĩa là  muốn làm gì tùy sở thích, vô trách nhiệm, bất kể điều tốt hay điều xấu, nhưng là quyền tự do lựa chọn điều Tốt, bỏ điều Xấu và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Bởi vậy, chớ bao giờ chống lại Ý Trời, vì sẽ bị diệt vong:” Thuận Thiên  giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Nhưng hãy cố gắng làm với thiện tâm, thì Trời sẽ giúp cho:” Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”

- Quan niệm nguyên thuỷ của  Đạo Nho thời Đức Khổng Tử(551 B.C) như đã tóm lược ở trên, cũng được các vị Truyền giáo tiên khởi tại Trung Quốc như Linh Mục Lợi Mã Đậu( (Mattêo Ricci, 1552-1610), so sánh với Thiên Chúa Giáo, và nhìn nhận có nhiều điểm tương đồng (coi: Sách “Thiên Chủ Thực Nghĩa”, The True Meaning of The Lord of Heaven)

4- Phúc Âm của Chúa Giêsu dạy: trong Chúa và với Chúa, ta có thể yêu người mà ta không thích hoặc không quen biết.(số 18)

-  Muốn thực hiện được điều Chúa dạy, trước tiên ta cần thông hiệp mật thiết làm một với Chúa, bằng cả tình cảm và ý chí, và  phải nhìn tha nhân dưới quan điểm của Chúa Giêsu Kytô, chứ không phải do sở thích của ta. Bạn của Chúa cũng là bạn của ta. Nhìn xa hơn dáng dấp bên ngoài,  ta linh cảm được nơi tha nhân lòng ao ước bên trong muốn nhận thấy dấu hiệu  của yêu thương, và ân cần săn sóc.Ta có thể trao cho tha nhân ánh mắt yêu thương mà họ thèm khát.

- Cần nhấn mạnh đến  sự hỗ tương  giữa Tình Yêu Chúa và Yêu nhân loại, như trong Thư I của Thánh Gioan: Nếu ta không Yêu Mến Chúa bao giờ trong đời sống, thì ta cũng chẳng thấy gì đặc biệt nơi người khác. Ta chẳng thấy hình ảnh Chúa nơi họ. Trái lại, nếu trong đời sống, tôi chẳng quan tâm một chút nào tới tha nhân, tôi chỉ ra bộ”sốt sáng”giữ Đạo một cách “chiếu lệ”, thì mối thân tình với Chúa cũng  khô cằn: có “đúng luật”, phải phép, nhưng  thiếu lòng mến. Chỉ khi nào ta phục vụ tha nhân, gặp gỡ và yêu mến họ, thì ta mới nhìn thấy Chúa thương yêu ta chừng nào.  Mẹ Chân Phước Têrêsa, thành Calcutta, nhờ kết hiệp với Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, mà thêm lòng Bác Ái để phục vụ tha nhân. Bởi vậy, Mến Chúa, và Yêu người không thể chia lìa, và làm nên Một Giới Răn.  

- Mến Chúa, và Yêu người, cả hai đều bắt nguồn từ Tình Chúa Yêu ta trước tiên. Bởi vậy, không còn vấn đề là một “Lệnh truyền”áp đặt từ bên ngoài, và không thể thực hiện được, nhưng là một kinh nghiệm tự do ban phát từ nội tâm, vì tình Vị Tha, tự bản thể là chia sẻ với tha nhân. Tình Thương tăng trưởng nhờ Tình Thương. Tình Thương là “Thần Thiêng”vì bởi Chúa mà ra, và hiệp nhất ta với Chúa. Nhờ mối tình liên kết đó, làm cho mọi người trở nên “Chúng Ta”, vượt trên mọi chia rẽ, nhưng đoàn kết nên Một, để cuối cùng , Thiên Chúa “ở trong mọi sự mọi người”(1 Cor, 15:28)   

 

- Để Tạm Kết Thúc PHẦN I trong Thông Điệp”Thiên Chúa là Tình Thương

Ngày hôm nay,19/4/2006, cũng là Ngày Sinh Nhật thứ 79 của Vị Giáo Chủ Bêneđitô XVI, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho nhân loại một vị Đại Diện Chúa nơi trần gian, một vi Lãnh Đạo Tinh Thần thông minh xuất chúng và nhiệt tình Mến Chúa Yêu Người. Cầu nguyện xin Ơn Trên phù trì cho Ngài được Trường Thọ, để dẫn dắt Giáo Hội và Thế giới trong thời đại tràn ngập  hận thù, bạo động, và chiến tranh. Bởi vì, bao lâu những Tôn giáo, Triết lý, những chính sách chính trị, kinh tế không tôn trọng Nhân Vị con người làm Mục đích, mà chỉ coi con người làm Phương tiện để lợi dụng, bóc lột, làm nô lệ cho một chủ nghĩa vị kỉ, thì bấy lâu thế giới còn lạc hậu, và bất an.

 - Những tư tưởng Thần học, Triết Lý uyên bác của Vị Giáo Chủ thời danh, đã được dư luận báo chí thế giới và tại Đức Quốc ca tụng, sánh ví như một “Thánh Tôma Aquinô thời nay”..

- Đọc Thông Điêp “Thiên Chúa  là Tình Thương”so sánh với Văn Hóa Việt Nam, chúng ta nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giũa Phúc Âm của Chúa Cứu Thế và niềm tin của dân chúng Việt nam, đã thấm nhuần nền Luân Thường Đạo Đức của Khổng giáo Nguyên Thuỷ. Dân chúng Việt Nam luôn đặt Con Người là Tâm Điểm, làm Cứu Cánh của Tình Yêu Thương Vị Tha, và vì thế tôn trọng  Nhân Phẩm, Nhân Quyền:

“ Thương Người như thể Thương Thân”

 Ước mong mọi người Dân Việt tiến bước thêm lên mãi trên Đường Tình Ái, để gặp được Tình Thương Tuyệt Đối, Vĩnh Cửu, như lời quả quyết của bức Thông Điệp: “Tình Yêu Người là bước đầu dẫn đến Tình Yêu Thương Chúa” ..

(Xin lưu ý: vì bài viết khá dài, nên  tạm ngừng ở đây. Xin đón đọc tiếp báo kỳ tới( Bài số 03): Phần II của Thông Điệp: “HỘI THÁNH, “Một Cộng đồng Yêu Thương”, Thực Hành ĐỨC BÁC ÁI , Part II:  CARITAS The Practice of Love by the Church as a “Community of Love”  )

Lm. Jos Cao Phương Kỷ

VỀ MỤC LỤC
LUẬT ĐỘC THÂN LINH MỤC

 

Thứ bảy 18-2, Niên Giám 2006 của Tòa Thánh được Đức Hồng Y Angelo Sodano - Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh - trình lên Đức Thánh Cha Biển-Đức 16.

Theo Niên Giám 2006, số Linh Mục trong Giáo Hội Công Giáo tiếp tục gia tăng. Tính đến cuối năm 2004 có 405.891 Linh mục: 1 phần 3 là Linh Mục dòng và 2 phần 3 là Linh Mục giáo phận.

Số phó tế vĩnh viễn liên tục gia tăng từ 25 năm nay. Trong năm 2004, Giáo Hội Công Giáo có hơn 32.300 thầy. Sự gia tăng mạnh nhất tại Bắc Mỹ với 47,3% và Âu Châu 32,3%.

Số ứng sinh Linh Mục cũng gia tăng. Năm 2004, Giáo Hội Công Giáo có 113.044 chủng sinh triều và dòng.

Trước đó, có người cho rằng sở dĩ con số Linh Mục giảm sút vì lý do luật độc thân quá khe khắt của Giáo Hội Công Giáo. Đó cũng là luận cứ của đức cha Jacques Gaillot, vị giám mục cấp tiến của Giáo Hội Công Giáo Pháp.

Nhưng các tín hữu giáo dân nghĩ khác. Chính họ vừa hiểu rõ cái khó khăn cuộc sống độc thân Linh Mục vừa tha thiết với lý tưởng độc thân. Sau đây là chứng từ của bà Francoise Lucrot, giáo dân Pháp. Bà viết:

Để tránh khủng hoảng ơn gọi Linh Mục, không phải dẹp bỏ luật độc thân. Trái lại, phải tạo bầu khí thuận lợi giúp các Linh Mục trung thành với ơn gọi độc thân. Làm Linh Mục không giống bất cứ nghề nghiệp nào. Ơn gọi Linh Mục trước tiên đến từ THIÊN CHÚA, và khi đáp lại ơn gọi này, là đáp lời mời gọi trở thành Linh Mục của Ngài.. Cộng đoàn dân Chúa tha thiết với đời sống độc thân của các Linh Mục. Họ cảm thấy đau đớn khi nhìn thấy các Linh Mục bỏ rơi nếp sống độc thân để lập gia đình, lấy vợ. Đối với tín hữu giáo dân, sự bất trung của các Linh Mục thường gắn liền với việc các Linh Mục đánh mất Đức Tin trong đời sống.

Khi nhìn sang các Giáo Hội Kitô khác như Tin Lành, Anh Giáo và Chính Thống, trong đó các mục sư và linh mục được phép lập gia đình, người ta nhận ra bao vấn đề nhiêu-khê, đặc biệt là chỗ đứng của các bà, hiền thê của các vị mục sư! Nhiều bà tranh đấu cho chồng được địa vị cao. Có bà không muốn theo chồng về làm việc mục vụ tại các vùng quê hẻo lánh, vì muốn ở lại thành phố để tiếp tục sự nghiệp của các bà!

Với tất cả khó-khăn cản-trở ”vô ích” trên đây, người ta thấy rằng, Giáo Hội Công Giáo quả thật có lý khi cương quyết bảo vệ luật độc thân Linh Mục! Giáo Hội không ngừng lập lại giáo huấn về luật độc thân Linh Mục cũng y như Giáo Hội luôn luôn nhắc nhở các đôi vợ chồng phải sống trung tín cho đến hơi thở cuối cùng, vì tính chất thánh thiêng của hôn nhân vậy..

Trước các đe dọa cuộc sống độc thân Linh Mục, hơn bao giờ hết, chúng ta - tín hữu giáo dân - phải làm hết sức để nâng đỡ các Linh Mục bằng tình thương huynh đệ của chúng ta. Hãy làm cho các ngài cảm nhận được rằng chúng ta cảm thông với các ngài và các ngài thật cần thiết cho cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, y như không khí cần cho cuộc sống con người vậy! Chúng ta ghi nhớ rằng:

- Linh Mục là Đức Chúa GIÊSU KITÔ hiện diện giữa chúng ta.

Chúng ta hãy tỏ lòng ghi ơn trước sự trung-thành, trước sự kiên-vững trong ơn gọi độc thân của các Linh Mục. Hãy mời các ngài đến dùng bữa chung với gia đình chúng ta. Hãy trìu mến vui vẻ tiếp đón các ngài. Đừng để các ngài quá cô đơn. Hãy nâng đỡ ủi an các ngài, chắc chắn các ngài sẽ tri ân chúng ta và THIÊN CHÚA sẽ trả công cho chúng ta cách bội hậu. Thảm kịch đe dọa các Linh Mục ngày nay, không phải nếp sống độc thân cho bằng nếp sống cô đơn của các ngài. Bổn phận chúng ta - tín hữu giáo dân - là yêu thương chăm sóc và nâng đỡ các ngài, bằng tình thương thảo hiếu của chúng ta.

... Đừng phó mặc hồn con cho một người đàn bà, kẻo bị nó đè đầu đè cổ. Đừng đón đường một gái làng chơi, kẻo con rơi vào bẫy của nó. Đừng đi lại với một ả-đào, kẻo con mắc phải mưu mô của nó. Đừng chòng chọc nhìn cô trinh nữ, kẻo con sa ngã mà bị phạt với nàng. Đừng trao thân cho đĩ-điếm, kẻo con phải khuynh gia bại sản. Ngoài đường phố, mắt đừng láo liên, trong ngõ hẽm, chớ có la cà. Hãy tránh đừng nhìn phụ nữ nhan sắc, cũng đừng ngắm nghía một giai nhân xa lạ. Vì sắc đẹp đàn bà mà bao kẻ đảo điên, cũng vì thế mà ái tình bừng lên như lửa. Chớ ngồi bên phụ nữ có chồng, đừng uống rượu với nàng trong các bữa tiệc, kẻo vì nàng mà lòng con nghiêng ngửa, và tâm thần chao đảo tiêu vong (Huấn Ca 9, 2-9).

(”LE CHRIST AU MONDE”, 1+2/1992, trang 80-81)  (Radio Vatican)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

VỀ MỤC LỤC
THỜI GIAN MAU QUA, CUỘC ĐỜI THAY ĐỔI

 

Một hoạ sĩ đã vẽ bức tranh “Bữa tiệc ly cuối cùng của Chúa với các môn đệ.” Đây là bức tranh vẽ trên tường lớn trong nhà thờ, đòi hỏi mất nhiều năm để hòan tất.

Khi tìm người mẫu để vẽ Chúa Giêsu, ông gặp một thanh niên có gương mặt đẹp đẽ thanh khiết, thể hiện nét nhân từ, ông thuê chàng. Vẽ hình Chúa xong, ông lần luợt vẽ các môn đệ. Công việc trôi qua, ông vẽ Giua-đa, là kẻ đã phản bội Chúa. Hoạ sĩ đến khu vực của những kẻ trộm cắp lừa đảo để tìm một khuôn mặt ranh ma, ông gặp được một người có bộ mặt đầy tham lam, trụy lạc. Ông liền thuê người ấy làm mẫu. Khi bức bức tranh hoàn tất, người ấy nói với họa sĩ: “Mấy năm trước, tôi nhớ ông có thuê tôi ngồi cho ông vẽ rồi.” Họa sĩ nói: “Chắc chắn là không.”  Người ấy bảo: “Ồ! tôi nhớ rất rõ, lần trước ông thuê tôi làm mẫu để vẽ hình Chúa Giêsu!”

Thời gian mau qua  cũng làm cho con người thay đổi nhiều: một là gương mặt tươi sáng, hiền từ, hai là nét mặt ranh ma, trụy lạc.

  * Một phút Suy Tư :  Cũng là một người, nhưng trước thì giống Chúa Giêsu, bây giờ giống Giu-đa! Trước là biểu hiện của sự phúc hậu, nhân từ, nay lại biểu lộ nét mặt độc ác, nham hiểm. Đó là sự thật! chính lòng Tham-Sân-Si đã biến đổi hẳn gương mặt con người.

   Tâm tánh sẽ làm bạn thay đổi diện mạo, nó sẽ thể hiện qua ánh mắt, nụ cười, lời nói, phản ứng và hành động. Ông Mô-sê khi gặp Chúa gương mặt ông đã trở nên sáng láng, thánh thiện. Ngược lại, Ca-in cúi mặt đã lầm lì khi lòng đầy ghen ghét và thù hận.(St 4,6)

  Thiên Chúa đã dựng lên bạn giống hình ảnh Ngài, nhưng lòng tham lam đã xâm nhập bạn phá hủy vẻ cao quý ấy. Năm tháng trôi qua đã làm bạn hiện rõ những niềm vui và hy vọng, hay khiến bạn u uất và sầu khổ, chán chường và tuyệt vọng, cay đắng và buồn phiền.

   Chúa Giêsu sẽ Phục sinh bạn: “Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa…” (2Cor 3,18)

  “Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và hãy làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu…”  (Kh 2, 5)

   Lạy Cha, xin giúp con luôn giử hình ảnh Cha trên nét mặt của con !

Phó tế: GB Nguyễn văn Định

VỀ MỤC LỤC
Chiên chăm Mục Tử

 

Người tín hữu rất quen thuộc với từ ngữ và hình ảnh “Mục Tử chăn chiên” (Is 40, 11) sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi nghe đề cập đến điều ngược lại : Chiên chăm Mục Tử.

“Chiên” ở đây chính là hình ảnh Kinh Thánh dùng để chỉ Dân Chúa và Mục Tử là người hướng dẫn Đoàn Dân. Chiều “thuận” thì ai ai cũng rõ. Nhân kỷ niệm 3 năm sống tại Bình An- nơi đầu đời làm Cha Sở, nơi nhận được sự chăm sóc giúp đỡ của đoàn chiên, và đáp lại tấm lòng của những người ở xa, những độc giả quí mến quan tâm, thăm hỏi, xin mạn phép chia sẻ chiều “nghịch” trong mối tương quan giữa Mục Tử và Đoàn Chiên.

Dù là Đức Giáo Hoàng-Mục Tử của Giáo Hội toàn cầu, là Giám Mục-Chủ Chăn giáo phận hay Linh Mục-mục tử nơi giáo xứ, tất cả đều cảm nghiệm chính Thiên Chúa là Mục Tử Tối Cao của ta, còn “Ta là Dân Người, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95, 7 ; Tv 100, 3). Tất cả chúng ta, dù là giáo sĩ hay giáo dân đều cùng hát lên lời Thánh Vịnh 22 : “Chúa chăn nuôi tôi…” với niềm xác tín “Chúa là Mục Tử, Người dẫn lối chỉ đường cho con đi…”.

Mọi mục tử, khi chúc lành cho dân chúng, đều phải ý thức như chính tổ phụ Giacóp đã xác định để chúc phúc cho Giuse : “Xin Thiên Chúa là Đấng mà cha ông của cha là Áp-ra-ham và I-xa-ác đã bước đi trước tôn nhan, xin Thiên Chúa là mục tử chăn dắt cha từ khi cha chào đời cho đến ngày hôm nay… chúc phúc cho những đứa trẻ này” (St 48, 15-16).

Thế mà Thiên Chúa, Mục Tử của chúng ta cũng “chịu” để cho đoàn chiên chăm sóc. Tổ phụ Abraham được vinh dự chăm sóc Chúa : “ĐỨC CHÚA hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: "Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!" Khách trả lời: "Xin cứ làm như ông vừa nói!" Ông Áp-ra-ham vội vã vào lều tìm bà Xa-ra mà bảo: "Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh." Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. Ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm, mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới gốc cây, đang khi khách dùng bữa.” (St 18,1-8).

Thật ra Chúa không cần chúng ta chăm sóc. Ngay cả khi chúng ta xây đền thờ, dâng của lễ, dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa… thì cũng là cách Chúa khiêm tốn “chịu” để cho con người “chăm sóc” một tí thôi. Vì “ĐỨC CHÚA phán thế này: "Trời là ngai của Ta, và đất là bệ dưới chân Ta. Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi?” (Is 66, 1). “Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình” (Kinh Tin Kính) đâu cần hy lễ : “ĐỨC CHÚA phán: "Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào nghĩa lý gì?Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy.Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm!” (Is 1,11). Chúng ta cũng đồng ý với lời Tiền Tụng lễ Tạ Ơn : “Vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con hạnh phúc muôn đời”.

Nhưng “Chúa Cả trời đất” lại vui nhận “một tấm lòng tan nát khiêm cung” của người sám hối : “Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.” (Tv 51,19). Thiên Chúa, Đấng chăm sóc mọi loài mọi vật, lại vui nhận để chúng ta là tạo vật “chăm sóc” Ngài, vì Ngài thích đón nhận tâm tình hiếu thảo của chúng ta.

Sách Sáng thế 19, 1-3 còn kể lại sứ giả của Chúa cũng vui nhận sự chăm sóc nơi Dân Người :

“Hai sứ thần đến thành Xơ-đôm vào buổi chiều; ông Lót lúc ấy đang ngồi ở cửa thành Xơ-đôm. Vừa thấy các ngài, ông Lót đứng lên ra đón các ngài và cúi sấp mặt xuống đất. Ông nói: "Thưa các ngài, kính xin các ngài ghé lại nhà tôi tớ các ngài đây để nghỉ đêm và rửa chân, rồi sớm mai các ngài tiếp tục đi đường." Họ đáp: "Không! Chúng tôi sẽ nghỉ đêm ngoài đường phố." Nhưng ông nài nỉ các ngài mãi nên các ngài ghé lại và vào nhà ông. Ông làm tiệc đãi các ngài, nướng bánh không men, và các ngài đã dùng bữa.”  Sứ thần của Chúa cũng không nở bỏ qua lòng hiếu khách và ước muốn phục vụ của ông Lót, mà để cho gia đình ông chăm sóc trong khi thi hành sứ vụ của Chúa !

Đọc lại Lịch Sử Cứu Độ, chúng ta sẽ gặp thấy các Tổ Phụ, các Thủ Lãnh, các Vua, các Ngôn Sứ đều được sự giúp đỡ của Dân, tạo thuận lợi trong việc thi hành sứ vụ Chúa trao. Những trợ giúp quý báu ấy : từ lời góp ý của bố vợ dành cho Môsê để có “những người có tài và đặt họ làm đầu dân” giúp lãnh đạo Dân (x. Xh 18, 13-27 ) ; đến “hũ bột không vơi” của bà goá thành Sarepta dành cho ngôn sứ Elisa (x. 1V 17, 7-15)… tất cả đều biểu lộ tấm lòng của Dân dành cho mục tử. Sự nâng đỡ tinh thần hay vật chất của Dân sinh ích nhiều cho thừa tác viên hoàn thành công việc Chúa trao. Có thể nói, Chúa sai mục tử chăn dắt dân, thì Chúa cũng dùng Dân chăm sóc mục tử.

Chính Chúa Giêsu-Mục Tử Nhân Lành cũng nhận được sự chăm sóc của đoàn chiên. Trong khi rao giảng Tin Mừng, huấn luyện các Tông Đồ, chữa lành bệnh nhân… Chúa vẫn nhận được sự giúp đỡ của các phụ nữ. Chính những phụ nữ đứng dưới chân thập giá là những người đã từng giúp đỡ Chúa : “Ở đó, cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê để giúp đỡ Người.” (Mt 27, 55) ; “Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giê-ru-sa-lem, cũng có mặt tại đó.” (Mc15, 41) ; Họ cũng giúp đỡ các tông đồ nữa:“Bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.” (Lc 8, 3)

Đặc biệt gia đình Matta, Maria và Ladarô tại Bêtania được coi là nơi dừng chân của Chúa. Chúa nhiều lần ghé nơi đây và nhận được sự chăm sóc, phục vụ của chị em họ. Ngay cả 6 ngày trước khi bước vào cuộc thương khó, Chúa còn ghé lại đây : “Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giê-su; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?" Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. Đức Giê-su nói: "Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu." (Ga 12, 1-8). Không biết có phải đây là lần cuối cùng không, nhưng có thể coi đây là lần thăm viếng quí báu nhất mà Chúa dành cho gia đình này. Bởi lúc này tâm trạng Chúa “buồn rầu, xao xuyến” (Mt 26, 17) trước những biến cố đau thương Ngài sẽ chịu, thế mà Ngài vẫn dành cơ hội cho gia đình mến yêu này đãi tiệc, phục vụ, hầu bàn.

Chúng ta cũng có thể suy diễn các Tông Đồ đã nhận được sự chăm sóc, giúp đỡ về vật chất khi bận rộn loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh : các tín hữu “ngày một đông số” (Cv 16, 5). Thánh Phêrô còn nhận được sự nâng đỡ tinh thần của Dân khi bị tù đày : “Đang khi ông Phê-rô bị giam giữ như thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.” (Cv 12, 5) và ông đã được giải thoát.

Để hoàn tất ba cuộc hành trình truỵền giáo và chăm sóc nhiều giáo đoàn, Thánh Phaolô, một người mang “cái dằm” (2Cr 12, 7) đau đớn, một người làm việc nhiều đến nỗi quên áo và đồ đạc : “Cái áo choàng tôi đã để lại nhà anh Các-pô ở Trô-a, thì khi đến, xin anh đem theo, cũng như các sách vở, nhất là những cuộn giấy da.” ( 2 Tm 4, 13), chắc chắn nhận được sự chăm sóc của nhiều tín hữu. Trong thư Rôma, ngài viết : “Tôi xin giới thiệu với anh em chị Phê-bê, người chị em của chúng tôi, là nữ trợ tá Hội Thánh Ken-khơ-rê. Mong anh em tiếp đón chị trong Chúa cách xứng đáng, như dân thánh phải đối xử với nhau. Chị có việc gì cần đến anh em, xin anh em giúp đỡ, vì chính chị cũng đã bảo trợ cho nhiều người, kể cả tôi nữa.” (Rm 16,1-2). Là tù nhân của Đức Kitô, thánh Phaolô còn nhận được sự bảo vệ của đoàn chiên : “Tại Đa-mát, tổng đốc của vua A-rê-ta đã cho lính canh gác thành để bắt tôi. Nhưng người ta đã cho tôi vào một cái thúng, rồi thòng qua cửa sổ dọc theo tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông ta.” (2 Cr 11, 32-33)

Cha ông chúng ta đã từng bảo vệ các thừa sai truyền giáo, chăm sóc họ, hy sinh có khi cả tính mạng để lo lắng cho hàng giáo sĩ. Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành bị bắt vì che dấu Cha Lý không chỉ cho chúng ta mẫu gương người nữ oai hùng, mà con để lại một lời can đảm : “Xin Cha ẩn dưới rãnh này. Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt” (Thiên Hùng Sử-tr. 215)

     

Trong đời sống của người mục tử, không phải là không có những người như anh thợ rèn đã làm khổ thánh Phaolô : “A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Chúa sẽ cứ việc anh ta làm mà trả báo. Cả anh nữa, cũng hãy đề phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẽ chống lại lời chúng ta rao giảng.” ( 2 Tm 4, 14-15), tuy nhiên nó không thể làm mờ đi hình ảnh đẹp của mối tương quan đầy yêu thương giữa mục tử và đoàn chiên.

Ngày này, vẫn còn nhiều giáo dân cao niên, đáng lý phải “được phục vụ” của con cháu, lại tự nguyện làm người “phục vụ” (x. Mt 20, 28) cho các Cha theo gương bà nhạc gia thánh Phêrô (x. Mc 1, 31). Không ít người hy sinh việc nhà để lo việc xứ. Cha xứ đau bịnh, giáo dân đau buồn tìm thầy, tìm thuốc, có người còn dám xin gánh bệnh cho Cha nữa… thật cảm động !

Tạ ơn Chúa vì những gì Chúa chăm sóc con qua đoàn chiên của Chúa. Hơn 5 năm thi hành tác vụ Linh Mục và 3 năm 3 ngày thực hiện vai trò là mục tử giáo xứ, con đã cảm nghiệm phần nào lời huấn đức đầy kinh nghiệm của Đức Cha Nicolas để dọn lòng lãnh chức thánh : “Điều bận tâm chính yếu  là trở nên một mục tử tốt. Một mục tử tốt thì không cần Chúa lo, giáo dân cũng lo cho…”. Điều con lo lắng là chưa tốt đủ để xứng hợp với sự chăn dắt của Chúa và sự chăm sóc của đoàn chiên !

Bình An, Thứ Tư Tuần Thánh 12.04.2006

Cố gắng viết theo sự khích lệ của độc giả

Lm. Phêrô Nguyễn Hữu Duy

VỀ MỤC LỤC

Mẩu đối thoại về lời Halleluja!

 

Cha Mẹ của bé Chi hát trong ca đoàn nhà thờ. Thỉnh thoảng ở nhà, ông bà lại hát bài có câu Halleluja. Nghe cha mẹ hát sao hay qúa, nhưng chẳng hiểu biết Halleluja là gì. Bé hỏi mẹ về ý nghĩa của Halleluja.

Mẹ nói: Halleluja có nghĩa, Lạy Thiên Chúa tình yêu, chúng con vui mừng ca ngợi tôn thờ Chúa! Và lời Halleluja thường được hát trong các bài thánh ca ở nhà thờ! 

Bé Chi: Thế những người khác khi nghe chữ Halleluja có hiểu như thế không?

Người cha chen vào: Ba nghĩ là có, chứ sao không!

Người mẹ nói thêm vào: Không phải ở bên Âu châu người ta mới hiểu chữ Halleluja như thế. Nhưng cả những người bên Á châu, bên Phi châu, bên Mỹ châu, bên Úc châu cũng đều hiểu như thế cả.

Bé Chi: Hay qúa, chữ Halleluja là từ ngữ đẹp, ai cũng hiểu được. Thế có thể dùng chữ đó làm lời chào hỏi được không?

Người cha: Ðẹp và hay thì đúng rồi. Nhưng dùng để chào hỏi, thì ba chưa nghe thấy bao giờ!

Người mẹ: Có chứ sao không! Mùa phục sinh ở nhà thờ, linh mục thường nói câu Halleluja như lời chào ở cuối thánh lễ đó. Bố con ông không nghe thấy sao?

Bé Chi: Và cả trước khi ông cha đọc bài gì đó khó hiểu, cả nhà thờ cũng hát bài có hai ba lần chữ Halleluja nữa mà. Nghe thấy vui vui!

Người mẹ: Thế ở nhà trẻ, cô giáo có tập cho chúng con bài hát có chữ Halleluja không?

Bé Chi: Có, nhưng cô không nói Halleluja là gì và hát để làm gì!

Người cha: Cách đây hai năm, ca đoàn đi hành hương chung sang Ðức Mẹ Medjugory. Bà và bé Chi ở nhà không đi được. Vào buổi chiều tối sau thánh lễ, một nhóm bạn trẻ từ nhiều nước khác nhau tụ tập đàn hát cuối thánh đường. Thấy vui nhộn, tò mò mấy người chúng tôi đi đến nhập cuộc cùng ca hát.

Cười nói vui vẻ. Nhưng ngôn ngữ khác nhau. Thành ra chẳng làm sao hiểu đề nghị của nhau hát hay nói cái gì. Một bạn trẻ, tôi nhớ hình như là người Labanon liền cất hát câu đầu có chữ Halleluja lên. Thế là mọi người cùng cất tiếng hát theo bài Halleluja của Taizé. Lúc đó không khí trở nên sống động lạ thường. Và cũng nhờ đó, những người khác ở chung quanh cùng kéo lại nhập cuộc hát theo.

Tan cuộc, một bạn trẻ đến bắt tay chào biệt chúng tôi và chỉ nói Halleluja, đang khi trên môi miệng nở nụ cười thân ái hạnh phúc! Và ai cũng hiểu anh muốn nói điều gì! Thật tuyệt!

Bé Chi: Thế hát có một bài Halleluja đó thôi sao?

Người cha: Bài hát đó có nhiều câu và được dịch viết ra bằng nhiều thứ tiếng. Những bạn trẻ họ hát theo ngôn ngữ nước họ. Ðến phần điệp khúc câu Halleluja, mọi người hát chung chữ đó thôi. Ai cũng thuộc chữ Halleluja và nhạc điệu cùng vỗ tay theo.

Người mẹ: Cũng cách đây ba năm Hội Hiền mẫu chúng tôi đi hành hương sang chỗ Thánh Phanxico thành Assi bên Ý. Bữa cơm chiều hôm đó ở nhà ăn lớn cho khách hành hương. Một nhóm nhỏ hành hương người Tây ban Nha đọc kinh hát một bài trước khi ăn cơm. Lại một nhóm khác người Balan cũng đọc kinh hát một bài nữa...Thấy vậy nhóm chúng tôi chỉ làm dấu Thánh gía và cất hát bài Halleluja của Taizé lên. Thế là mọi người trong nhà ăn hôm đó cùng hát theo to tiếng vang dội khắp phòng ăn to lớn chứa hàng trăm người. Hát xong họ còn vỗ tay, huýt sáo cười nói vui vẻ. Rồi còn chúc nhau bằng đủ mọi thứ tiếng „ăn ngon“ nữa!

Bé Chi: Ba còn bài hát nào có chữ Halleluja nghe vui vui nữa không?

Người cha: Có chứ, ba có đĩa nhạc bài Halleluja của Händel hay tuyệt, và rất hợp với không khí mùa mừng lễ Chúa sống lại!

Người mẹ: Nghe đĩa thì hay đã đành hay rồi. Nhưng ông và tôi cùng hát bài đó cho con nó nghe và mình cũng tập hát luôn cho lễ mừng Chúa sống lại đêm nay. Và biết đâu nó cũng có thể bắt chước hát theo! Như thế còn gì hay hơn nữa! Nào chúng ta cùng cất giọng hát: Halleluja, Halleluja! Halleluja....

Lm. Nguyễn ngọc Long   Lễ Phục sinh 2006

VỀ MỤC LỤC

 Hiểu Biết Căn Bản về Ung Thư

Câu Chuyện Thầy Lang

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức

Cách đây vài thập niên, khi được xác định bị ung thư thì nhiều bệnh nhân rụng rời chân tay, lo sợ. Vì mắc phải ung thư là coi như đời sống sẽ vô cùng ngắn lại. Ngoài ra sự sợ hãi cũng tăng là vì khi đó sự hiểu biết về bệnh cũng còn giới hạn.  

Sau nhiều năm nghiên cứu, khoa học đã có những khám phá tương đối rõ ràng hơn về nguyên nhân cũng như điều trị và cách thức phòng ngừa bệnh. Nhờ đó một số lớn ung thư có thể được chữa khỏi nếu phát hiện sớm.

Ung thư không phải là một bệnh mà gồm vài chục loại khác nhau. Chúng có thể xuất phát từ bất cứ nơi nào trong cơ thể với các hung tính riêng.

Ai cũng có thể bị ung thư. Nhưng mắc bệnh hay không tùy thuộc vào một số yếu tố như nơi ở, nghề nghiệp, quá khứ sức khỏe của mỗi cá nhân và gia đình, gen di truyền, nếp sống hàng ngày. Theo thống kê, ung thư xẩy ra nhiều hơn ở lớp tuổi trên 60; người kém lợi tức nhiều hơn giới trung lưu; tín đồ vài tôn giáo như Mormon và Seventh-Day Adventists ít bị hơn. Có lẽ vì họ chừng mực trong đời sống và dinh dưỡng, không rượu, thuốc lá.

Ung thư đã được biết tới từ thuở xa xưa.

Danh từ Cancer, được Hippocrates dùng đầu tiên, bắt nguồn từ chữ karcinos có nghĩa là con Cua, ngụ ý diễn tả những u bướu có nhánh tỏa ra chung quanh.

Y giới cổ Hi Lạp cho ung thư là do mất thăng bằng bốn chất lỏng trong cơ thể, nhất là khi mật từ gan tiết ra quá nhiều.

Gallen thì lại cho ung thư là do có quá nhiều máu sau khi cơ thể bị viêm nóng.

Ðến thế kỷ 15, có khoa học gia lại coi hệ bạch huyết có liên hệ tới ung thư.

Khi tế bào được khám phá qua kính hiển vi và được coi như đơn vị căn bản của cơ thể thì hiểu biết về ung thư rõ ràng hơn.

Ngày nay y khoa học đã chứng minh ung  thư là do một số tế bào đột nhiên tăng sinh sản một cách bất bình thường và không kiểm soát được.

Diễn tiến ung thư

Nhắc lại là cơ thể được cấu tạo bởi cả nghìn nghìn tỷ đơn vị gọi là tế bào. Tế bào giúp ta thực hiện các chức năng chính của cơ thể như tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, cử động, suy nghĩ.

Mô bào tăng trưởng và sinh sản tùy theo nhu cầu của cơ thể và trong một trật tự đã được quy định. Một tế bào thành hai, hai thành bốn và liên tục tiếp diễn.

Trong những năm đầu của cuộc đời, tế bào sinh sôi nẩy nở rất nhanh cho tới khi ta trưởng thành. Sau đó tế bào của hầu hết các bộ phận chỉ sinh ra để thay thế tế bàogià yếu hoặc bị tiêu hủy, thương tích.

Khi tế bào tăng sinh một cách vô trật tự, không đáp ứng nhu cầu, không kiểm soát được và mất khả năng tự hủy thì chúng sẽ tạo ra một nhóm gọi là u bướu. U này có thể lành hoặc dữ.

Lành thì thu gọn, ít gây hiểm nghèo cho sức khỏe, không lan tới các nơi khác và có thể mổ cắt bỏ.

Trái lại u ung thư thì nguy hiểm hơn vì chúng lan sang các bộ phận xa gần. Ðó là sự di căn. Khi di căn như vậy, nơi mà ung thư khởi sự vẫn được coi là ung thư chính. Thí dụ tế bào ung thư nhiếp tuyến chạy vào xương thì vẫn giữ các đặc tính của ung thư nhiếp tuyến.

Có nhiều giải thích về sự thay đổi của tế bào ung thư.

Theo bác sĩ L. Hebert Maurer, đại học Y khoa Darmouth sự hình thành ung thư diễn tiến qua hai giai đoạn:

Tác nhân gây ung thư xâm nhập một tế bào và gây rối loạn cho DNA. DNA là chất có trong mọi tế bào và điều khiển mọi sinh hoạt của tế bào. Ở tế bào bình thường, khi bị tổn thương thì DNA có thể sửa chữa được trong khi đó DNA tế bào ung khi bị hư hao thì bất khả tu sửa. Gen DNA này biến đổi và tế bào có khả năng trở thành ác tính.

Tiếp theo là một vài hóa chất trong tế bào lại hỗ trợ sự tăng sinh của tế bào nổi loạn và tạo ra u bướu.

Thời gian từ khi tiếp xúc với tác nhân nguy hại tới khi khám phá ra bệnh kéo dài có khi cả mươi mười lăm năm. Ðấy là thời gian mà nếu khám phá ra sớm thì có thể chặn sự thành hình hoặc giới hạn sự lan rộng của tế bào ung thư.

Siêu vi khuẩn và một số hóa chất đã được coi như những rủi ro gây ra ung thư.

Theo bác sĩ Isadore Rosenfeld, giáo sư Trung Tâm Y Khoa Cornel, 35% ung thư có liên hệ tới thực phẩm ăn uống, 30% gây ra do hút thuốc lá, 4% do nghề nghiệp, 3% do tiêu thụ nhiều rượu, 2% do ô nhiễm. Ấy là chưa kể phóng xạ, kích thích tố và các rủi ro chưa được xác định.

Ung thư có thể gây bệnh ở mọi cơ quan, nhưng nhũ hoa, ruột già, nhiếp tuyến, bao tử, tụy tạng, bàng quang, phổi, da, tử cung là những nơi thường thấy.

Những dấu hiệu của nguy cơ bị ung thư.

Tùy theo loại, ung thư có những dấu hiệu cảnh báo như sau:

a- Thay đổi thói quen đại tiểu tiện;

b- Một vết thương lâu lành;

c- Xuất huyết hoặc tiết dịch bất thường ở một cơ quan;

d- U cục ở nhũ hoa hoặc các phần mềm;

e- Không tiêu và khó khăn khi nuốt thức ăn;

g- Có những mụt cóc hoạc nốt ruồi mole trên da

h- Ho khan hoặc khản tiếng.

Nếu có một trong những dấu hiệu trên, xin đi khám bác sĩ ngay để được khám nghiệm thêm. Nếu chẳng may bị bệnh thì bệnh sẽ mau khỏi nếu được điều trị sớm.

Khám nghiệm phát hiện ung thư

Cho tới nay, 80% các trường hợp ung thư đều được xác định ở giai đoạn 2 hoặc 3 nên việc điều trị bị giới hạn. Do đó Viện Ung Thư Hoa Kỳ đưa ra các hướng dẫn sau đây để sàng lọc screening một số ung thư trước khi có dấu hiệu bệnh.

Phụ nữ

a- Tuổi từ 18-39

Ung thư nhũ hoa: Khám nhũ hoa mỗi ba năm do bác sĩ;  tự khám mỗi tháng; chụp X-quang nhũ hoa trong tuổi 35-39.

Ung thư cổ tử cung: khám tử cung và làm pap test mỗi  năm.

b- Tuổi 40 trở lên

Ung thư nhũ hoa và cổ tử cung: như trên.

Ðàn ông

a- Tuổi 15 trở lên

Thiếu niên cần tự khám ngọc hành mỗi tháng vì tuổi 15- 34 là nhiều nguy cơ ung thư.

b- Ðàn ông trên 40 tuổi

Hàng năm khám hậu môn để coi tình trạng to nhỏ nhiếp tuyến rồi thử prostate specific antigen.
 

Nam Nữ

a- Tuổi 40-50

Khám hậu môn mỗi năm để phát hiện ung thư trực tràng.

b- Tuổi trên 50

Hàng năm khám hậu môn và thử phân coi có máu.

Mỗi năm năm làm nội soi trực tràng.

 

Giảm thiểu nguy cơ bị ung thư

a- Hút thuốc là là nguyên nhân chính của ung thư phổi; vậy thì không nên hút thuốc. Thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong cho 30% trường hợp ung thư phổi.

b- Tránh tiếp cận với ánh nắng gay gắt để giảm thiểu nguy cơ bị ung thư da;

c- Giảm cân; ăn nhiều rau trái cây; giảm muối dể giảm ung thư ruột.

d- Nếu uống rượu thì uống vừa phải;

e- Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, “ăn uống đúng đắn, tăng hoạt động cơ thể và đừng để mập phì là những phương thức tốt để giảm rủi ro ung thư”.

 

Ðiều trị ung thư

Hiện nay có ít nhất bốn phương pháp để điều trị ung thư: giải phẫu, xạ trị, hóa trị và miễn dịch trị liệu immunotherapy. Mục đích các phương pháp này là tiêu diệt tế bào ung thư mà không gây tổn thương cho tế bào bình thường. Phương pháp có thể dùng riêng rẽ hoặc phối hợp với nhau. Tiến bộ về kỹ thuật đã tăng hiệu quả và an toàn của các phương pháp và nhiều bệnh nhân đã được cứu sống.

1- Giải phẫu.

Giải phẫu là phương pháp điều trị cổ điển nhất nhưng cũng rất công hiệu đặc biệt là với ung thư thu gọn ở một phần nào đó của cơ thể. Khi giải phãu, tế bào ung thư được lấy đi càng nhiều càng tốt. Ðôi khi tế bào lành cũng được cắt bỏ để chắc chắn là tế bào ung thư lẫn vào đã được loại hết.

Hiệu quả tùy thuộc vào một số yếu tố:

a- U thu gọn ở một chỗ và chưa di căn;

b- Tế bào ung thư tăng sinh chậm;

c- Vị trí của u bướu;

d- Khả năng chuyên môn của phẫu thuật gia;

e- Công hiệu của các dịch phụ hỗ trợ như thuốc mê, kiểm soát ngừa nhiễm trùng, tiếp máu, dụng cụ giải phẫu và chăm sóc sau khi mổ,

 

2- Xạ trị

Ðây là phương tiện thường dùng. Quá nửa các loại ung thư được chữa bằng xạ trị đặc biệt là ung thư đầu, cổ, phổi, bọng đái. Thường thường radiation được dùng cho ung thư không chữa được bằng giải phẫu hoặc khi đã giải phẫu mà có e ngại ung thư tái phát

Sự thành công tùy thuộc vị trí của ung thư, ung thư có mẫn cảm sensitive với phóng xạ; u thu gọn và không di căn.

Mục đích xạ trị là để tiêu diệt tế bào nổi loạn và làm teo u khối bằng các làn sóng hoặc phân tử như proton, electron, x-ray, gamma -ray

Có hai cách xạ trị:

a) Ðưa hẳn vào u ung thư. Chẳng hạn sau khi mổ thì radiation chứa trong vật đựng được đặt ngay ở nơi mổ;

b) Dùng máy để hướng radiation vào u bướu và tế bào ở xung quanh;

Xạ tác tiêu diệt hữu hiệu trên tế bào ung thư tăng trưởng nhanh hơn là tế bào thường tăng sinh chậm.

Xạ được đưa vào cơ thể với phân lượng rất nhỏ trong vòng ba hoặc bốn tuần lễ để có tác dụng mạnh lên tế bào ung thư và giới hạn ảnh hưởng lên tế bào lành. Nếu chẳng may bị tổn thương thì tế bào bình thường cũng mau lành.

Công hiệu của xạ trị liệu tùy thuộc phương pháp áp dụng. Tác dụng phụ thông thường là mệt mỏi, thay đổi trên da, ăn mất ngon.

Có điều là chi phí điều trị khá tốn kém, tùy theo điều trị nhiều hay ít.

 

3- Hóa trị

Ðược dùng khi ung thư đã lan ra ngoài vị trí ban đầu hoặc khi có di căn ở nhiều địa điểm. Phương pháp sẽ hữu hiệu hơn nếu ung thư mẫn cảm với hóa chất; bướu còn nhỏ; khi bệnh nhân khỏe mạnh, có sức chịu đựng với tác dụng ngoại ý của thuốc.

Có nhiều loại hóa chất khác nhau. Mỗi hóa chất có tác dụng riêng biệt với từng ung thư bằng cách làm ngưng sự phân chia và sinh sản của tế bào phản loạn. Khi không có sự phân bào thì tế bào tan vỡ, u bướu teo lại.

Hóa trị đã cứu sống rất nhiều bệnh nhân và cũng giúp nhiều người khác giảm bệnh.

Không như xạ trị hoặc giải phẫu đòi hỏi ung thư thu gọn, hóa trị có thể phân tán khắp cơ thể để tiêu diệt tế bào ung thư ở các nơi mà bác sĩ  không tìm ra.

Thuốc có thể uống nhưng đa số là truyền qua tĩnh mạch.

Tác dụng phụ thường thấy là ói mửa, rụng tóc, mệt mỏi, dễ nhiễm trùng, thiếu hồng huyết cầu.

 

4- Miễn dịch trị liệu

Nói đến điều trị ung thư ta thường nghĩ ngay tới tiêu diệt tế bào bệnh hoạn bằng hóa chất, phóng xạ hoặc dao kéo giải phẫu. Các phương pháp này rất công hiệu nhưng cũng gây tổn thương cho tế bào lành.

Miễn dịch trị liệu không ảnh hưởng tới tế bào lành nhưng rất hữu hiệu trong việc tiêu diệt tế bào nổi loạn. Mục đích của trị liệu này là tăng cường khả năng chống trả với bệnh tật của cơ thể đồng thời ngăn ngừa sự phát triển tế bào ung thư.

Phương pháp này hiện nay đang được nghiên cứu kỹ càng và có nhiều triển vọng sáng sủa cho người bệnh.

Tr liu mi cho Bn Ung Thư Him nghèo

Với các bệnh ung thư nguy hiểm, y khoa học đã cống hiến nhiều phương pháp trị liệu khá công hiệu. Nhưng những phương tiện này cũng tạo ra một số tác dụng xấu mà người bệnh phải cam nhận.

Sau một giải phẫu, một trị liệu bằng hóa chất, phóng xạ, nhiều bệnh nhân rơi vào tình trạng mất khẩu vị ăn uống, ói mửa, mệt mỏi, suy nhược, tóc rụng, da khô. Đó là do ảnh hưởng của các trị liệu được tung vào người bệnh với hy vọng là sẽ tiêu diệt được nhiều tế bào ung thư hơn là tế bào lành.

Gần đây, đã có nhiều phát minh mới để trị ung thư một cách chính xác hơn, tập trung vào những tế bào nổi loạn. Các phương pháp này dựa trên sự hiểu biết cặn kẽ về đặc tính của tế bào ung thư, yếu điểm của chúng và hướng sự trị liệu vào chúng mà tiêu diệt, thay vì làm hại oan tới tế bào tốt.

Hiện nay đã có một số phương tiện trị liệu mới nhắm vào bốn loại ung thư hiểm nghèo là ung thư phổi, ung thư vú, ung thư tuyến nhiếp và ung thư ruột già.

1- Ung thư Phổi.

Đây là loại ung thư gây ra tử vong rất cao, bằng tổng số tử vong của các ung thư ruột già, nhiếp tuyên và vú.

Tế bào ung thư phổi rất đa dạng gây ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên không một phương thức trị liệu đơn độc nào có thể hoàn toàn khống chế được chúng. Các khoa học gia đang thử nghiệm một số trị liệu mới như sau:

a- Phóng xạ trực tiếp (Directed radiation)- Dưới sự hướng dẫn của X quang cắt lớp ( CAT scan) và máy vi tính, tia phóng xạ sẽ được đưa trực tiếp tới vị trí của các tế bào ung thư mà tiêu diệt. Phương  pháp này, gọi là IMRT (intesity modulated radiation therapy), có thể đưa một số phóng xạ nhiều gấp bốn hoặc tám lần tới các tế bào ung thư mà không gây hại gì cho tế bào bình thường ở chung quanh.

IMRT hiện đang được sử dụng ở nhiều trung tâm trị liệu, và cũng được dùng để trị ung thư nhiếp tuyến, ung thư đầu và cổ, ung thư dạ dầy, bao tử.

Tác dụng không tốt gồm có tiêu chẩy, tiểu tiện gắt, kích thích khó chịu ở ruột già và bọng đái.

b- Dược phẩm  trị ung thư để hít vào phổi (Inhaled cancer drugs).-  Giống như thuốc hít chữa bệnh suyễn, thuốc trị ung thư này được hít trực tiếp vào phổi để truy lùng tiêu diệt tế bào ung thư. Một trở ngại là thuốc sẽ chỉ tập trung ở hai lá phổi chứ không phân tán đi khắp cơ thể.

Thuốc đang ở trong giai đoạn thử nghiệm và hy vọng sẽ sớm được áp dụng..

c- Những trái bom tinh nhanh (Smart Bombs)- Hai loại thuốc mới đang chờ đợi cơ quan Thực Phẩm & Dược Phẩm Hoa Kỳ chấp thuận để trị ung thư phổi, ung thư ruột già, vú, nhiếp tuyến, tụy tạng. Đó là thuốc Iressa và Tarceva. Dược phẩm này chuyên đi tìm các tế bào ung thư và chặn sự tăng sinh của chúng, làm u bướu ung thư nhỏ đi. Thuốc tác dụng trực tiếp trên tế bào ung thư nên gây rất ít thiệt hại cho tế bào lành.

2- Ung thư Vú.-

Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng trên 200.000 trường hợp ung thư vú được phát hiện và số tử vong lên tới trên 40.000 người. Các phương thức trị liệu mới gốm có:

a- Dược phẩm làm ngưng sự tăng trưởng tế bào ung thư  như Tarceva và Herceptin.

Phối hợp với hóa trị liệu, Herceptin  được coi như  có nhiều hy vọng tránh tử vong cho người bệnh. Thuốc này đã được công nhận, còn Tarceva thì khoảng vài năm nữa là được sản xuất.

b- Thuốc kiềm chế kích thích tố estrogen. Vì có nhiều liên can tới ung thư vú, nên kiềm chế tác dụng của estrogen là muc tiêu của vài dược phẩm mới như Arimidex và Femara. Các thuốc này hiện giờ đang được sử dụng.

c- Làm đông lạnh u ung thư . Dùng tia laser hoặc sóng vi ba với cường độ cao, đưa thẳng vào u ung thư để tiêu hủy nó. Phương pháp này có thể làm tan biến u ung thư nhỏ dưới 3/8 inc và thực hiện mau lẹ, bệnh nhân về nhà ngay ngày hôm sau.

Phương pháp đã được dùng để trị ung thư gan; trong dăm ba năm sẽ được áp dụng cho ung thư vú, phổi và có thể cho cả ung thư nhiếp tuyến.

3- Ung thư Nhiếp tuyến.

Đây là loại ung thư xẩy ra nhiều nhất ở đàn ông. Hàng năm bên Mỹ có khoảng gần 200.000 trường hợp ung thư mới phát hiện và số tử vong cũng khá cao: khoảng 30.000 mỗi năm.

Cho tới nay, hóa trị đã được áp dụng nhưng không công hiệu lắm mà phẫu thuật lại hay gây ra loạn cương dương và sự không kiềm chế tiểu tiện (incontinence), gây bất tiện cho bệnh nhân.

Các phương thức trị liệu mới đang được thử nghiệm và tương lai có vẻ sáng sủa hơn:

ạ (Radiation seeds). Dưới sự hướng dẫn của màn ảnh siêu âm (ultra sound scan), một đầu kim chích chứa một lượng phóng xạ được đưa vào u ung thư và làm teo u này.

Phương pháp được giới thiệu là rất chính xác, không làm hại gì tới tế bào lành ở chung quanh. Khi dùng chung với giải phẫu, phương pháp này có khả năng trị tuyệt từ 60 tới 90% tế bào ung thư nhiếp tuyến.

b- Giải phẫu mà không gây liệt dương. Trong phương pháp này, sau khi cắt bỏ nhiếp tuyến và giây thần kinh điều khiển sự cương dương, nguờì ta lấy một đoạn giây thần kinh ở dưới cổ chân, cấy nơi bẹn để thay thế cho giây thần kinh đã bị cắt bỏ.  Phương pháp đang ở trong vòng thử nghiệm ở Viện ung thư MD Anderson, Texas. Hy vọng là trong vài năm sẽ được hoàn chỉnh và được mang ra sử dụng để tránh cho người bệnh khỏi bị liệt dương vì giải phẫu cứu sống.

4- Ung Thư  Ruột già.

 Đây là loại ung thư đứng hàng thứ tư ở cả nam lẫn nữ giới. Mỗi năm bên Mỹ có khoảng 150.000 ca mới. Số tử vong khoảng 55.000 người.

a- Phối hợp Xạ trị và Giải phẫu. Trong phương pháp này, khi giải phẫu thì xạ liệu cũng được dùng song hành để tiêu diệt tế bào ung thư. Xạ liệu được đưa tới trực tiếp tế bào bệnh nên không ảnh hưởng gì tới tế bào lành. Phương pháp rất tốt khi ung thư giới hạn ở ruột chứ khi đã lan ra các cơ quan lân cận thì quá trễ. Nhiều trung tâm ung thư đã áp dụng phương pháp này.

b- Bỏ đói ung thư (Starving tumors). Tế bào ung thư chỉ tăng sinh khi được nuôi dưỡng đầy đủ. Nếu ta ngăn chặn sự nuôi dưỡng này từ các mạch máu thì tế bào sẽ chết đói, ung thư ngưng phát triển. Đó là chủ đích của các dược phẩm Avastin, Endostatin, chặn sự phát triển của các mạch máu trong u ung thư.

Kết luận

Ngày nay, y khoa học đã mang lại nhiều hy vọng cứu sống cho các nan bệnh ung thư.

Bệnh nhân cũng có thể tìm tới các loại cây con mà loài người có kinh nghiệm về trị bệnh từ lâu. Ðông y ta đã từng dùng lá đu đủ, nấm linh chi, dây tóc tiên, cây rẻ quạt, bạch truật, nam sa sâm, ý dĩ vân vân và đã có trường hợp ung thư thuyên giảm. Có bệnh thì vái tứ phương mà.

 Nhưng có lẽ chỉ nên tìm tới các món này khi mà các phương tiện khoa học hiện có bó tay hoặc dùng phụ thêm nếu không có chống chỉ định. Vì dù sao thì các phương tiện thực nghiệm cũng đã được chứng minh sự hữu hiệu, chẳng trăm phần trăm thì cũng dăm bẩy chục phần trăm.

Ngoài ra, tình trạng tâm trí cũng có ảnh hưởng tới việc điều trị ung thư và các nan bệnh khác. Một hiểu biết cặn kẽ về bệnh tật, một thái độ tích cực, một thư giãn tâm hồn làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể để đối phó với khó khăn.

Như giải phẫu gia Berbard S. Siegel, Ðại học Y khoa Yale nhận xét: “Thể chất đáp ứng với các tín hiệu từ trí óc, một cách ý thức hoặc vô  ý thức. Các tín hiệu này có thề là “sinh” hoặc “tử”. Tôi nghĩ là con người không những chỉ có bản năng sinh tồn mà còn bản năng tự hủy. Bản năng tự hủy khiến cơ thể ngưng sự tự vệ, giảm hoạt động các chức năng, đưa ta tới tử địa khi chúng ta nghĩ là đời không còn đáng sống nữa”.

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC
NÓNG GIẬN VÀ CÁCH CHỮA TRỊ

 

Nóng giận là một vấn đề tất cả chúng ta ai cũng biết đến bằng kinh nghiệm và bằng kiến thức và không ít người trên thế giới từ ngày xửa ngày xưa đến ngày nay và mãi mãi về sau cũng sẽ kinh nghiệm và hiểu biết về nóng giận. Sách vở, bút mực, ngôn từ, hình ảnh liên quan đến nóng giận có thể nói vô cùng vô tận. Người phàm phu cho đến các hàng tăng lữ, thánh hiền đều chú trọng đến nó vì nói chung nó thường tác hại hơn mang lại lợi ích, và nói đến tác hại của nóng giận trong các kinh sách có câu: “Không có ác nào bằng ác sân si”.  

Để góp một phần nhỏ bé vào một vấn đề quá lớn lao như thế, tôi xin gửi đến bạn đọc hai phần dưới đây với hy vọng nếu ai “có duyên” thì cũng có thể “phòng chống” cái “nóng giận”, kể cả “căng thẳng” (stress), “mõi mệt”, “buồn chán” hay “kiệt sức” mỗi khi nó đến với chúng ta.

 

CÁCH TRỊ NÓNG GIẬN

Nóng giận chữa trị cách sao?

Thở hít sâu, chậm, ra, vào làm ngay!

Ra, vào đếm “một”, không “hai”;

Lập đi lập lại “giận” phai nhạt dần.

Thông thường đếm đến mười lần,

Cơn “giận” tan biến không cần làm thêm.

Còn như vẫn thấy chưa êm,

Tiếp tục hít thở sẽ quên “giận” liền.

(Sacramento, ngày 12 tháng 3 năm 2006)

Tôn Thất Bàng

 

HÃY LÀM MỘT THAY ĐỔI

Một bước đơn giản hướng tới sự khỏe mạnh

THỞ SÂU HƠN (*)

Chận đứng căng thẳng khi nó đang đến bằng cách thở bụng

Chỉ cần thở hơn là nghe lời khuyên hời hợt. Hành động rất quan trọng và giản dị này là một thần dược dành cho những ai bị căng thẳng, mõi mệt, buồn chán hay bị kiệt sức.

Mặc dầu chúng ta thở hơn 17.000 lần một ngày, phần đông chúng ta không biết thở sao cho đúng cách. “Con người thường có khuynh hướng thở cạn” là lời giải thích của Dennis Lewis, tác giả Free Your Breath, Free Your Life (Hãy Để Hơi Thở Của Bạn Được Tự Do, Hãy Để Đời Sống Của Bạn Được Tự Do).

Ông ấy nói thông thường chúng ta chứa hành lý căng thẳng và cảm xúc trong bụng khiến cho bụng căng lên và tự đóng lại. Điều này dẫn đến việc thở bằng phổi nhanh và cạn, điều này có thể gây ra sự mệt mõi, lo âu, và sự mất khí các-bô-níc, sự co thắt các động mạch và tiểu động mạch. Thở đầy đủ hơn bằng bụng thì bạn sẽ làm giãn đầu óc và bắp thịt căng thẳng và đồng thời giảm áp huyết của bạn.

Bắt đầu bằng cách chú ý đến hơi thở của bạn – đừng cố gắng làm thay đổi nó, chỉ quan sát nó xem nó có dừng lại ở ngực hay vào đầy bụng? Bạn cảm thấy co thắt ở đâu?

Kế đến, bạn tập thở bằng bụng sử dụng kỹ thuật dưới đây. Nếu bạn thực hành đều đặn, hơi thở của bạn sẽ bắt đầu trở nên sâu hơn không đòi hỏi sự cố gắng, và bạn sẽ quen với việc thở bằng bụng. Chính khi đó bạn có thể bắt đầu hưởng thụ năng lượng thanh tịnh và  tập trung có sẵn cho bạn dùng với mỗi hơi thở.

THỞ ĐÚNG CÁCH:

Hãy tập kỹ thuật yô-ga này của Richard Rosen, tác giả The Yoga of Breath (Yô-ga của Hơi Thở)

1.   Nằm ngữa hai bàn tay đặt lên bụng. Nghĩ đến phần giữa người như một cái chậu chứa các cơ quan của bụng. Thở ra bằng mũi, và tưởng tượng như lấy các thứ ấy ra khỏi chậu cho đến lúc chậu rỗng không.

2.  Hít vào bằng mũi hướng sự chú ý đến đáy chậu hiện rỗng không và cảm nhận xem nơi nào hơi thở di chuyển đến và nơi nào nó không đến.

3.  Tưởng tượng có một đèn pin đang chiếu ánh sáng đến những vùng hơi thở không đến được. Đừng ép hơi thở đi vào những vùng ấy, chỉ chiếu ánh sáng đến những chỗ đó bằng “đèn pin của bạn” – hơi thở của bạn tự nhiên sẽ theo sự chú ý của bạn.

4.  Tiếp tục thở theo cách này trong 15 phút, cảm nhận đôi tay của bạn bắt đầu dâng lên và chìm xuống với mỗi hơi thở. Bụng của bạn sẽ căng phồng với mỗi hơi thở vào và thóp lại với mỗi hơi thở ra.

Sacramento, ngày 18 tháng 2 năm 2006

Người dịch: TÔN THẤT BÀNG

(*) Take a Deeper Breath by SARAH D. SMITH,  NATURAL HEALTH, March 2006

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************